Thành Lập Hộ Kinh Doanh Cá Thể

Thủ tục đăng kí hộ kinh doanh cá thể như thế nào?

Đăng Kí Khai Sinh Có Yếu Tố Nước Ngoài

Thủ tục đăng kí khai sinh có yếu tố nước ngoài như thế nào?

Dịch Vụ Tư Vấn Giải Quyết Tranh Chấp

Thủ tục giải quyết tranh chấp như thế nào?

Hiển thị các bài đăng có nhãn Công ty luật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Công ty luật. Hiển thị tất cả bài đăng
Nhãn: , , , , , ,

Quy định mới về thử việc

 


 Thử việc là thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm thử công việc trong một khoảng thời gian nhất định tuân thủ theo quy định của pháp luật. Trước khi giao kết hợp đồng lao động, người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận về giai đoạn thử việc để quyết định sự hợp tác, gắn bó lâu dài giữa người lao động với người sử dụng lao động. Thử việc cần tuân thủ quy định của Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Bộ luật Lao động 2019 có hiệu lực từ ngày 01/01/2020 ban hành một số quy định mới liên quan đến thử việc.

Bộ luật Lao động năm 2012 không đề cập đến việc thỏa thuận nội dung thử việc trong hợp đồng lao động. Theo đó, người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ của hai bên trong thời gian thử việc. Nếu có thoả thuận về việc làm thử thì các bên có thể giao kết hợp đồng thử việc. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động. Từ những quy định trong Bộ luật Lao động 2012 dẫn đến cách hiểu rằng, người lao động và người sử dụng nên lập hợp đồng thử việc riêng. Thử việc hoàn tất và người lao động đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của người sử dụng lao động, hai bên mới giao kết hợp đồng lao động. Theo quy định mới nhất trong Bộ luật Lao động năm 2019, người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc. Quy định này đã làm rõ hình thức giao kết hợp đồng thử việc, theo đó thử việc có thể giao kết một hợp đồng riêng rẽ hoặc trở thành một trong những điều khoản của hợp đồng lao động. Đối với trường hợp nội dung thử việc được ghi trong hợp đồng lao động thì khi kết thúc thời gian làm thử việc, nếu người lao động thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết. Nếu các bên thỏa thuận bằng hợp đồng thử việc thì giao kết hợp đồng lao động mới.

Liên quan đến các trường hợp giao kết hợp đồng thử việc, người lao động giao kết hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng không áp dụng thử việc. Ngoài ra, quy định người lao động làm việc theo hợp đồng lao động mùa vụ thì không phải thử việc đã được bãi bỏ do hiện tại không còn hình thức hợp đồng lao động mùa vụ trong luật.

Bên cạnh đó, thời hạn thử việc trước đây được giới hạn không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên. Hiện tại, thời hạn thử việc được cho phép đối với những người quản lý doanh nghiệp có thể lên tới 180 ngày. Luật Lao động đã phân định giới hạn thời gian thử việc dựa vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc. Trong đó, người quản lý doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ công ty (áp dụng đối với các doanh nghiệp không có vốn nhà nước).

Một sửa đổi khác đối đối với việc hủy bỏ thỏa thuận thử việc, Bộ luật Lao động 2019 đã bãi bỏ giới hạn quyền hủy bỏ này. Theo đó, trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường. Ngược lại, người lao động và người sử dụng lao động chỉ có thể hủy bỏ thỏa thuận lao động nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận theo Bộ luật Lao động 2012.

Quá trình thử việc là bước đệm cho việc tiến tới ký kết hợp đồng lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động nhằm đảm bảo sự phù hợp về năng lực và kinh nghiệm của người lao động đáp ứng yêu cầu của người sử dụng la động. Các doanh nghiệp với tư cách là người sử dụng lao động cần nắm rõ các nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động cũng như hợp đồng thử việc để tránh xảy ra tranh chấp lao động hoặc nếu có tranh chấp thì nên tham khảo ý kiến luật sư chuyên về tranh chấp sớm để hoả giải hoặc có phương án tranh chấp phù hợp, hiệu quả.

0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Sự cần thiết của việc hòa giải thương mại trong thực hiện các hợp đồng giao dịch quốc tế

 

Theo báo cáo gần đây của World bank về chỉ số giải quyết tranh chấp hợp đồng, thời gian trung bình để giải quyết một vụ tranh chấp hợp đồng thương mại tại Tòa án là 400 ngày và phải trải qua 25 thủ tục tố tụng tại tòa.

Việc giải quyết tranh chấp ở Tòa án hiện nay còn rất nhiều vướng mắc liên quan đến việc giải quyết và thi hành án, việc có quá nhiều thủ tục và hiệu quả thi hành án chưa cao, điều này dẫn đến việc các bên tranh chấp trong hợp đồng thương mại mất nhiều thời gian và chi phí giải quyết. Vì vậy, việc lựa chọn giải quyết tranh chấp ở các Trung tâm hòa giải là điều cần thiết để giải quyết vấn đề này.

Hiện nay, các cơ quan liên quan cũng có những biện pháp tích cực để kêu gọi việc áp dụng các biện pháp hòa giải thương mại trong hợp đồng thương mại quốc tế, nhằm giải quyết hiệu quả, nhanh chóng hơn những tranh chấp trong thương mại quốc tế. Việc áp dụng giải quyết tranh chấp thương mại tại các Trung tâm hòa giải ở Việt Nam sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí giải quyết tranh chấp, Ngoài ra, việc giải quyết tranh chấp ở các Trung tâm hòa giải cũng sẽ giúp các bên giữ vững được uy tín, niềm tin của nhau trong việc giao dịch trong tương lai.

Tính tới tháng 8 năm 2019, ở Việt Nam có 7 Trung tâm hòa giải thương mại được Bộ Tư pháp cấp giấy phép thành lập, với đội ngũ hòa viên, luật sư được cấp chứng chỉ trong nước và quốc tế, có thể giải quyết những tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế, từ đó giúp cho các tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế có thể được giải quyết nhanh chóng, dễ dàng. Việc lựa chọn các trung tâm hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp, sẽ giúp cho các bên tiết kiệm thời gian, chí phí và giữ được uy tín của mình trong việc kinh doanh sau này.

0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Những đối tượng không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp

 


Tổ chức và thành lập Doanh nghiệp là quyền tự do của mỗi cá nhân, tổ chức, nhưng có phải mọi có nhân, tổ chức đều có thể sử dụng quyền này hay không? Nếu không, những chủ thể nào sẽ bị hạn chế?

Khoản 2 điều 17 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về những tổ chức, cá nhân không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam, bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước; Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật này, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân; Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng. Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh; Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự”.

Sở dĩ quy định này nhằm mang lại công bằng và hạn chế tối đa tiêu cực trong kinh doanh. Cán bộ, công chức, viên chức là người làm việc cho hà nước, một số người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan Nhà nước và là người nắm giữ những chức trách, nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước, họ được hưởng lương theo chế độ chính sách riêng của Nhà nước do vậy phải có trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình; ngoài ra pháp luật quy định hạn chế họ tham gia vào các hoạt động thành lập và quản lý doanh nghiệp để ngăn ngừa tình trạng tham nhũng có thể xảy ra, tình trạng này có thể do sự không minh bạch trong các hoạt động kinh doanh đan xen với việc thực hiện nhiệm vụ của mình trong cơ quan nhà nước, sự xao nhãng nhiệm vụ do tư lợi cá nhân, thậm chí có thể dẫn đến sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Tóm lại, tự do kinh doanh là quyền của mỗi người, tuy nhiên không phải ai cũng có quyền đó, pháp luật hạn chế một số người tham gia vào việc thành lập và quản lý doanh nghiệp.

Trên đây là bài tư vấn của chúng tôi về những đối tượng không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ với Công để  ty luật để được tư vấn hoặc hỗ trợ chi tiết.


0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Quyền của cổ đông trong công ty cổ phần

  


Cổ đông có quyền tiếp cận các tài liệu, thông tin của doanh nghiệp. Ngoài những văn kiện cơ bản của doanh nghiệp như điều lệ, danh sách cổ đông, biên bản họp và nghị quyết Đại hội đồng cổ đông, cổ đông được quyền tiếp cận các báo cáo liên quan tới hoạt động kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, các quyền này không dành cho toàn bộ cổ đông, một số thông tin chỉ các cổ đông nắm giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định mới được tiếp cận.

Xem xét, tra cứu và trích lục thông tin về tên và địa chỉ liên lạc trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết và danh sách cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông; yêu cầu sửa đổi thông tin không chính xác của mình

Xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, biên bản họp Đại hội đồng cổ đông và nghị quyết Đại hội đồng cổ đông

Xem xét, trích lục và sao chép một phần hoặc toàn bộ nội dung danh sách những người có liên quan của công ty và các hợp đồng, giao dịch tương ứng của họ với công ty, lợi ích liên quan Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác của công ty

Xem xét, tra cứu, trích lục sổ biên bản và nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm, báo cáo của Ban kiểm soát, hợp đồng, giao dịch phải thông qua Hội đồng quản trị và tài liệu khác, trừ tài liệu liên quan đến bí mật thương mại, bí mật kinh doanh của công ty (áp dụng cho cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên, Điều lệ được quy định một tỷ lệ khác nhỏ hơn)

Xem xét báo cáo kết quả kinh doanh của công ty, báo cáo tài chính, báo cáo đánh giá công tác quản lý, điều hành công ty; báo cáo thẩm định của Ban kiểm soát (áp dụng cho cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục ít nhất 01 năm cùng với luật sư, kế toán viên, kiểm toán viên của họ)

Khác với các công ty cổ phần thông thường, công ty đại chúng có nghĩa vụ công bố đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin định kỳ và bất thường về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính và tình hình quản trị công ty cho cổ đông và công chúng. Công ty đại chúng phải công bố đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin khác nếu các thông tin đó có khả năng ảnh hưởng đến giá chứng khoán và ảnh hưởng đến quyết định của cổ đông và nhà đầu tư

Quyền khởi kiện

Luật Doanh nghiệp đã quy định cơ chế để yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông hoặc khởi kiện người quản lý công ty khi không thực hiện đầy đủ, đúng trách nhiệm đối với công ty, gồm:

Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên (Điều lệ được quy định một tỷ lệ khác nhỏ hơn) được quyền:

Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông khi trình tự và thủ tục triệu tập họp và ra quyết định của Đại hội đồng cổ đông vi phạm nghiêm trọng quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty

Tuy nhiên, Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông được thông qua bằng 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp pháp và có hiệu lực ngay cả khi trình tự, thủ tục triệu tập họp và thông qua nghị quyết đó vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty.

Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông khi nội dung nghị quyết vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty

Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 01% tổng số cổ phần phổ thông được quyền

Khởi kiện trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc trong một số trường hợp

Thông thường, Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc giữ vai trò là người đại diện theo pháp luật của công ty, đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người tham gia tố tụng trước Tòa án và Trọng tài, Tòa án. Tuy nhiên, khi lợi ích của họ mẫu thuẫn với lợi ích các cổ đông, cổ đông có quyền tự mình khởi kiện yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại. Luật Doanh nghiệp cũng tạo cơ chế cho phép các cổ đông được nhân danh công ty khởi kiện khi những người quản lý trên có các hành vi vi phạm, gây thiệt hại cho doanh nghiệp và gián tiếp cho cổ đông.

Không phải tất cả cổ đông đều có quyền khởi kiện các chức danh quản lý trên mà chỉ cổ đông sở hữu từ 01% tổng số cổ phần phổ thông. So với Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Doanh nghiệp 2020 đã bãi bỏ yêu cầu đối với việc nắm giữ số cổ phần nói trên liên tục trong thời hạn 06 tháng. Quy định hạn chế này có ý nghĩa trong bối cảnh công ty đại chúng, nhằm loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ các cổ đông nhỏ do công ty đối thủ đưa sang quấy phá hoạt động của công ty, bởi tỷ lệ 01% trong công ty đại chúng là một con số không hề nhỏ.

Tương tự với khởi kiện người quản lý, cổ đông hoặc nhóm cổ đông cũng được yêu cầu phải sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên để được quyền yêu cầu hủy bỏ Nghị quyết đại hội đồng cổ đông khi có vi phạm về nội dung hoặc hình thức. Về mặt nội dung, mọi nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty đều bị hủy theo yêu cầu của cổ đông. Về mặt hình thức, chỉ những vi phạm nghiêm trọng mới có thể bị hủy, hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể đối với những vi phạm này, việc nhận định sẽ phụ thuộc vào cách nhìn và đánh giá có phần chủ quan của thẩm phán hoặc trọng tài.



0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Đất đang tranh chấp với hàng xóm thì có được chia thừa kế hay không?

  


Được chia thừa kế đất trong những trường hợp nào? Theo quy định của pháp luật thì đất đang có tranh chấp với hàng xóm thì có được chia thừa kết hay không? 

 Thừa kế đất đai, tài sản của người để lại thừa kế là hoạt động hoàn toàn hợp pháp khi tuân thủ trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật về thừa kế và nhà nước thừa nhận sự chuyển nhượng thừa kế đất đai, tài sản. Tuy nhiên khi có tranh chấp liên quan đến đấtđai thì việc chia thừa kế chắc chắn sẽ gián đoạn. Để được chia thừa kế đối với đất đang tranh chấp cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật đất đai.

Khi thừa kế quyền sử dụng đất thì cá nhân sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 99 Luật đất đai năm 2013 trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bao gồm người được chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, được thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất; người nhận quyền sử dụng đất khi xử lý hợp đồng thế chấp bằng quyền sử dụng đất để thu hồi nợ.

Theo điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định về điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất gồm các điều kiện như sau:

  • Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
  • Đất không có tranh chấp;
  • Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
  • Trong thời hạn sử dụng đất.

Theo quy định như vậy thì đất được chia thừa kế phải là đất không có tranh chấp. Và bản chất việc chia thừa kế đất là việc được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Đối với đất chia thừa kế đang tranh chấp với hàng xóm thì phải thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp về đất theo quy định tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành luật đất đai. Đất đang trong thời gian tranh chấp là đất không đủ điều kiện để chia thừa kế. Việc giải quyết tranh chấp có thể bằng hòa giải, hoặc khởi kiện đến tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp. Sau khi tranh chấp được giải quyết thì việc chia thừa kế sẽ được diễn ra. Nhưng quá trình giải quyết phải đảm bảo yêu cầu về thời hạn chia thừa kế tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hạn yêu cầu chia thừa kế đối với bất động sản là 30 năm. Quá thời hạn này thì yêu cầu chia thừa kế sẽ không được chấp nhận. 

0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Làm đám cưới mà không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật không ?

  


Lễ cưới (hay hôn lễ) là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm thông báo rộng rãi về sự chấp nhận và chứng kiến của gia đình, xã hội về cuộc hôn nhân của một cặp đôi, là hình thức liên hoan, mừng hạnh phúc cô dâu chú rể và hai gia đình. Lễ cưới được hiểu là một nghi lễ, và thường kết hợp với một tiệc cưới để trở thành đám cưới hoặc lễ thành hôn. Vậy, tổ chức lễ cưới mà chưa đăng ký kế hôn có vi phạm pháp luật không?

Khoản 5 điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 giải thích về kết hôn như sau: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”

Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về  việc đăng ký kết hôn như sau: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”. Vậy, việc kết hôn không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận và không có giá trị pháp lý, hai bên nam nữ không có nghĩa vụ vợ chồng với nhau.

Việc tổ chức đám cưới, chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không bị pháp luật cấm, tuy nhiên việc tổ chức đám cưới và sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không được pháp luật công nhận, nói cách khác, về mặt pháp lý, hai bên nam nữ không phải vợ chồng của nhau, họ không có quyền và nghĩa vụ vợ chồng với nhau.

Khoản 2 điều 5 quy định các hành vi bị cấm để bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình, trong đó bảo gồm việc người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Tức là khi việc sống như vợ chồng khi một bên đang có vợ hoặc chồng, một bên chưa có vợ/chồng mà biết người kia có vợ hoặc chồng là vi phạm pháp luật, sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý; Tương tự, việc sống như vợ chồng với những người có họ trong phạm vi ba đời, cha/mẹ-con nuôi, cha/mẹ chồng/vợ- con dâu/con rể, cha dượng/mẹ kế-con riêng cũng vi phạm pháp luật, phải chịu trách nhiệm pháp lý.

Như vậy, việc tổ chức đám cưới mà không đăng ký kết hôn là hình chung sống như vợ chồng, không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Pháp luật cũng không cấm việc chung sống như vợ chồng nếu không thuộc những trường hợp đã nêu trên.

Tóm lại, căn cứ để pháp luật công nhận một cuộc hôn nhân hợp pháp là dựa vào tờ giấy chứng nhận kết hôn. Việc tổ chức một đám cưới linh đình, đông vui chỉ là nơi để cặp vợ chồng công bố với mọi người về việc họ chính thức quyết định về chung một nhà và cùng nhau xây dựng tổ ấm, hoàn toàn không có chút ràng buộc pháp lý nào. 

0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư theo Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVIPA

 


FTAs thế hệ mới không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ mà còn mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với cả đầu tư. Phần lớn các FTAs này cũng bao gồm các nguyên tắc tự do hoá đầu tư và bảo hộ nhà đầu tư thông qua việc quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (ISDS). Hai Hiệp định đáng chú ý thời gian gần đây là Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có chương 9 về Đầu tư có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 tại Việt Nam và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) (được tách ra từ Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Liên minh châu Âu – EVFTA) đang đợi tất cả các quốc gia thành viên phê chuẩn trước khi có hiệu lực.

Đầu tiên, về nguyên tắc minh bạch trong giải quyết tranh chấp, CPTPP và EVIPA đều có các điều khoản hoàn thiện tính minh bạch của quá trình tố tụng. Theo đó tất cả các tài liệu (được đệ trình bởi các bên, quyết định của hội đồng trọng tài) sẽ được công khai, trừ các tài liệu bảo mật. Các phiên điều trần sẽ được thực hiện công khai cho các bên có liên quan có thể tham dự. EVIPA đã áp dụng Quy tắc minh bạch UNCITRAL trong khi CPTPP không áp dụng Quy tắc này mà chỉ áp dụng một số quy định tại Điều 9.24 Hiệp định (Điều 9.24 CPTPP, Điều 3.46 EVIPA).

Thứ hai, EVIPA đã thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực, khác với cơ chế vụ việc trong CPTPP. Theo EVIPA, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm. Hiệp định EVIPA đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam quy định cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực trong một Hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam.

Thứ ba là phán quyết của hội đồng xét xử. Theo EVIPA, phán quyết cuối cùng sẽ được các bên tuân thủ, không kháng cáo, rà soát, bãi bỏ, huỷ bỏ hay bất kỳ biện pháp sửa đổi nào. Việt Nam được gia hạn 5 năm tính từ khi Hiệp định có hiệu lực hoặc thời gian dài hơn do Ủy ban thương mại quyết định. Trong thời gian đó, nếu Việt Nam là bị đơn thì việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài sẽ tuân theo Công ước New York 1958 (Điều 3.57). Hết thời hạn 5 năm, việc thực thi phán quyết theo cơ chế Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước). Biện pháp bảo hộ ngoại giao không được phép áp dụng trừ trường hợp một bên không thực thi phán quyết cuối cùng của trọng tài (Điều 3.58). Trong khi đó, theo Điều 9.29, CPTPP vẫn cho phép khả năng sửa đổi, hủy bỏ phán quyết. CPTPP có nhiều cơ chế thực thi hơn, bao gồm cả Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước), Công ước New York năm 1958 và Công ước liên châu Mỹ (cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước).

Cuối cùng, cả EVIPA và CPTPP đều tăng tính độc lập, vô tư và chất lượng của trọng tài hoặc thành viên của hội đồng khi ban hành bộ quy tắc ứng xử. Trong EVIPA, bộ quy tắc ứng xử này được quy định cụ thể trong Phụ lục 11 trong khi với CPTPP, bộ quy tắc này không được quy định nhưng sẽ được bổ sung hướng dẫn sau đó bởi các bên ký kết trên cơ sở Quy tắc ứng xử về thủ tục giải quyết tranh chấp theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) (Khoản 6 Điều 9.22).

0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Căn cước công dân gắn chíp có thể đăng ký tại nhà qua zalo

  


Những ngày gần đây, nhiều địa phương trên cả nước đang rơi vào tình trạng quá tải khi nhiều người dân đổ xô đi làm CCCD gắn chip. Có thể thấy, với nhiều ưu điểm tiện lợi cùng mức độ bảo mật cao, CCCD được nhiều người quan tâm và muốn "nâng cấp" là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên, để có thể hạn chế tình trạng chen chúc, chờ đợi nơi đông người, cũng như tiết kiệm thời gian, hiện nay bạn có thể thực hiện đăng kí CCCD trên Zalo một cách nhanh chóng, dễ dàng.

Cụ thể, để có thể đăng kí CCCD gắn chip trên Zalo, bạn thực hiện theo các bước sau:

 

Bước 1: Đăng nhập vào Zalo phiên bản mới nhất, ứng dụng hiện có mặt trên các nền tảng iOS và Android.

Bước 2: Tại khung tìm kiếm, bạn nhập vào Công An khu vực bạn cư trú (Ví dụ: CA quận 4), sau đó chọn Quan tâm.

Bước 3: Tại trang thông tin, bạn chọn ô Thủ tục, chọn tiếp "Cấp CCCD". Sau đó, tiến hành điền đầy đủ thông tin vào Tờ khai Căn cước công dân (Tờ khai điện tử).

Nếu Zalo của đơn vị Công An khu vực bạn cư trú chưa cập nhập, bạn có thể vào trực tiếp link này để điền Tờ khai Căn cước công dân, rồi thực hiện các bước tương tự tiếp theo.

Bước 4: Chọn Ngày lên nộp của bạn, ngày đi nộp sẽ trong 7 ngày theo danh sách (Chiều thứ Bảy và ngày Chủ Nhật không làm việc).

 

Khi đã có sẵn tờ khai online, bạn chỉ việc đến cơ quan công an theo đúng ngày đã đặt lịch rồi thực hiện tiếp các công việc còn lại như lấy dấu vân tay, chụp ảnh... Mọi thứ lúc này sẽ trở nên thuận tiện hơn rất nhiều khi bạn không phải tốn thời gian đợi đến nơi rồi mới xếp hàng, lấy số thứ tự, điền đơn... Cách thức này cũng giúp bạn hạn chế tiếp xúc nơi đông người, đồng thời giảm tải quy trình cho các các bộ tại đơn vị thực hiện cấp CCCD gắn chip.

Theo: Trí thức trẻ

0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Tranh Chấp Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Ở Việt Nam

 

 

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ

Có 3 biện pháp để giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ đó là: Biện pháp hình sự; biện pháp dân sự và biện pháp hành chính.
Thông thường, hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý hình sự nếu trước đó đã bị xử lý hành chính. Trong khi đó, ranh giới giữa biện pháp dân sự và biện pháp hành chính lại chưa thật sự rõ ràng, đặc biệt vấn đề những tranh chấp nào được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự và những tranh chấp nào được giải quyết bằng “con đường” hành chính. Hệ quả là, nhiều tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ lẽ ra phải được giải quyết theo thủ tụng tố tụng dân sự nhưng lại giải quyết theo thủ tục hành chính

Quy định không rõ ràng về thẩm quyền dẫn đến sự chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan, các cơ quan đôi khi thực hiện công việc không thuộc thẩm quyền của mình, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ

Người có quyền khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ

Do pháp luật không quy định ai có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, dẫn đến trong thực tế người có quyền khởi kiện đôi khi bỏ mất quyền khởi kiện hoặc người không có quyền khởi kiện lại khởi kiện nên không được Toà án giải quyết.

Nguyên đơn trong vụ án về quyền sở hữu trí tuệ có thể là tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ hoặc một số người có quyền liên quan khác. Cụ thể như sau:

Đối với những tranh chấp về quyền tác giả, những người sau đây có quyền khởi kiện:

Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
Chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả;
Người được thừa kế của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
Người có quyền liên quan đến quyền tác giả, bao gồm: người biểu diễn; tổ chức sản xuất băng âm thanh, băng hình; tổ chức phát sóng;
Người có quyền sử dụng hợp pháp tác phẩm thông qua hợp đồng sử dụng tác phẩm;
Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.

Đối với tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, những người sau đây có quyền khởi kiện:

Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.
Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí mật kinh doanh.
Người sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý.
Người được thừa kế quyền sở hữu công nghiệp.
Người có quyền sử dụng hợp pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua hợp đồng li-xăng.
Người biểu diễn; tổ chức, cá nhân sản xuất băng ghi âm, ghi hình; tổ chức phát thanh, truyền hình.
Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.

Nếu có bất cứ thắc mắc về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ và giải quyết về tranh chấp vui lòng liên hệ công ty luật để biết thêm chi tiết. 

0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Trách Nhiệm Của Bên Bán Trong Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Khi Không Giao Đủ Hàng

  Giao – nhận hàng hóa là nghĩa vụ cơ bản các bên khi thực hiện Hợp đồng mua bán hàng hóa. Cụ thể, theo quy định của pháp luật, khi mua bán hàng hóa, Bên Bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định của Luật Thương mại. Đồng thời, Bên Mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thoả thuận và thực hiện những công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng.

Trường hợp Bên Bán giao thiếu hàng thì phải giao đủ hàng theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp Bên Bán không giao đủ hàng theo thỏa thuận thì Bên Mua có quyền mua hàng của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hoá ghi trong hợp đồng và Bên Bán phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá và Bên Bán phải trả các chi phí thực tế hợp lý.

Bên Mua có quyền yêu cầu phạt hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

Bên cạnh đó, Bên Bán có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; và hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.

Trong Hợp đồng mua bán, trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Như vậy, khi Bên Bán thực hiện không đúng cam kết như trong hợp đồng (giao không đủ hàng cho Bên mua), Bên Mua có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án buộc Bên Bán phải hoàn trả số tiền hàng đã nhận (tương đương với số hàng chưa giao), tiền lãi do chậm thanh toán, tiền phạt hợp đồng, tiền bồi thường thiệt hại (do không giao hàng nên Bên Mua đã phải mua của đơn vị khác và phải trả tiền cao hơn so với giá đã thoả thuận với Bên Bán) theo quy định. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì Bên Mua chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì Bên Mua có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.

Về việc xác định trách nhiệm dân sự khi vi phạm Hợp đồng mua bán, theo quy định của pháp luật, pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân. Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình; không chịu trách nhiệm thay cho người của pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác. Người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện, trừ trường hợp luật có quy định khác. Do đó, nếu Bên Bán vi phạm hợp đồng, pháp nhân là Bên Bán phải chịu trách nhiệm trả tiền cho Bên Mua và người của pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân đó.

Tóm lại, khi giao kết Hợp đồng mua bán hàng hóa, Bên Bán cần nắm được
những quy định pháp luật cơ bản về quyền và nghĩa vụ của mình, Bên Mua cũng cần biết rõ về nghĩa vụ của Bên Bán để có thể phòng ngừa rủi ro phát sinh khi một trong các bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng, từ chối chịu trách nhiệm hay cố tình đùn đẩy trách nhiệm giữa các bên.



0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Những Vấn Đề Cần Chú Ý Khi Đăng Ký Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Trí Tuệ

  Hiện nay, trong quá trình phát triển nhanh của kinh doanh toàn cầu, sự lớn mạnh của các tập đoàn đa quốc gia hay việc kinh doanh qua Internet sẽ giúp cho các cá nhân, công ty có thể đem sản phẩm của mình ra toàn thế giới. Điều này giúp các cá nhân, công ty có thể thu lại nguồn lợi lớn mạnh trong quá trình kinh doanh. Bên việc đem các các sản phẩm của mình tới khách hàng, thì việc bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm được tạo ra là vô cùng quan trọng và cần thiết. Dưới đây là những điểm lưu ý khi đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.


Đầu tiên, để có thể đăng ký bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ, sản phẩm được bảo hộ phải đáp ứng đủ các điều kiện để được bảo hộ theo quy định tại Luật sở hữu trí tuệ, như có tính mới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng công nghiệp, đối với các tác phẩm nghệ thuật phải được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định.

Sau khi có đủ điều kiện được bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu cần chú ý tới thủ tục thực hiện đăng ký bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ. Theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005, thời điểm phát sinh quyền sở hữu trí tuệ đối với quyền tác giả là khi sản phẩm được sáng tao và thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định không nhất thiết phải đăng ký xác lập quyền Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên về quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Vì vậy, để có thể xác lập quyền Sở hữu trí tuệ của mình đối với sản phẩm tạo ra, chủ sở hữu cần phải thực hiện đăng ký bảo hộ sản phẩm theo đúng quy định, trình tự được đưa ra bởi Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn kèm theo.

Bên cạnh các thủ tục đăng ký theo quy định, chủ sở hữu cần chú ý đến thời điểm nộp đơn đăng ký bảo hộ, điều cần thiết nhất đó là việc nộp đơn càng sớm càng tốt. Theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ, trong trường hợp có nhiều đơn đăng ký các sáng chế trùng hoặc tương đương với nhau, các kiểu dáng công nghiệp trùng hoặc không khác biệt đáng kể với nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ được cấp cho sáng chế hoặc kiểu dáng công nghiệp trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ. Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng hoặc tương tự với nhau hoặc trường hợp có nhiều đơn của cùng một người đăng ký các nhãn hiệu trùng dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ được cấp cho nhãn hiệu trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ. Trong trường hợp có nhiều đơn đăng ký quy quy định như trên cùng đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ và cùng có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất thì văn bằng bảo hộ chỉ được cấp cho đối tượng của một đơn duy nhất trong số các đơn đó theo thoả thuận của tất cả những người nộp đơn; nếu không thoả thuận được thì các đối tượng tương ứng của các đơn đó bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ.

Vì vậy, để có thể bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ của mình, chủ sở hữu cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện cho sản phẩm, ngoài ra cần thực hiện các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật và nhanh chóng nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ cho sản phẩm của mình. Việc sản phẩm được bảo hộ sẽ giúp cho cá nhân, công ty thu được nhiều lợi nhuận trong quá trình hoạt động của mình, ngoài ra tránh được các rủi ro khi bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Công ty luật với đội ngũ luật sư và chuyên viên Sở hữu trí tuệ, đại diện sở hữu trí tuệ có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ sẽ giúp khách hàng thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ một cách chính xác và hiệu quả.



0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Gia hạn Văn bằng bảo hộ các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp

 Theo Luật sở hữu trí tuệViệt Nam, đối tượng quyền Sở hữu công nghiệp bao gồm Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.



Quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Văn bằng bảo hộ của Cục sở hữu trí tuệ tại Việt Nam hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Còn lại quyền đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó; quyền đối với bí mật kinh doanh được được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.

Vậy quyền đối với đối tượng phát sinh dựa trên việc cấp Văn bằng bảo hộ có thời hạn và phạm vi bảo hộ như thế nào?

Thứ nhất, Văn bằng bảo hộ có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Điều này có nghĩa là hiệu lực của Văn bằng chỉ mang tính chất lãnh thổ, nước nào cấp Văn bằng thì sẽ chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ nước đó mà không được chấp nhận tại các nước khác hay các văn bằng do cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp sẽ có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Thứ hai, đối với từng đối tượng sở hữu công nghiệp, hiệu lực của Văn bằng bảo hộ cũng khác nhau. Chẳng hạn như Bằng độc quyền sáng chế chỉ có hiệu lực 20 năm kể từ ngày cấp nhưng mốc thời gian để tính đến thời điểm hết 20 năm bảo hộ lại là từ ngày nộp đơn. Đối với bằng độc quyền giải pháp hữu ích, lại chỉ có thời gian bảo hộ là 10 năm và cách tính đến thời điểm hết 10 năm cũng tương tự như bằng độc quyền sáng chế. Lưu ý rằng đối với bằng độc quyền sáng chế và bằng độc quyền giải pháp hữu ích không thể gia hạn thêm hiệu lực Văn bằng. Tuy nhiên, bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu lại có thể gia hạn thêm. Cụ thể: Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết năm năm kể từ ngày nộp đơn và có thể gia hạn liên tiếp mỗi lần 5 năm, như vậy, bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có thể có thời hạn lên đến 15 năm; Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có thời hạn có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, tuy nhiên, đối tượng này có một đặc điểm nổi trội là có thể gia hạn hiệu lực giấy chứng nhận nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mươi năm do vậy mà đối tượng này có thể gia han hiệu lực mãi mãi.

Riêng đối với Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý sẽ có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp do đặc thù của đối tượng này đó là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể. Danh tiếng của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý do điều kiện địa lý quyết định bao gồm Yếu tố tự nhiên (khí hậu, thủy văn, địa chất, địa hình, hệ sinh thái và các điều kiện tự nhiên khác); Yếu tố con người (kỹ năng, kỹ xảo của người sản xuất, quy trình sản xuất truyền thống của địa phương…).

Ngoài ra, còn một đối tượng có hiệu lực Văn bằng khá đặc thù là Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn. Giấy chứng nhận sẽ có hiệu lực từ ngày cấp và chấm dứt vào ngày sớm nhất vào một trong những ngày sau: Kết thúc mười năm kể từ ngày nộp đơn. Kết thúc mười năm kể từ ngày thiết kế bố trí được người có quyền đăng ký hoặc người được người đó cho phép khai thác thương mại lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới. Kết thúc mười lăm năm kể từ ngày tạo ra thiết kế bố trí.

Như vậy, khi chủ sở hữu đối tượng quyền sở hữu công nghiệp đã được cấp Văn bằng bảo hộ, cần lưu ý vào những thời điểm hết hiệu lực của Văn bằng để có thể làm thủ tục gia hạn kịp thời nhằm đảm bảo quyền lợi cũng như lợi ích mà đối tượng sở hữu công nghiệp mang lại.

 


0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư theo Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVIPA FTAs thế hệ mới không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ mà còn mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với cả đầu tư. Phần lớn các FTAs này cũng bao gồm các nguyên tắc tự do hoá đầu tư và bảo hộ nhà đầu tư thông qua việc quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (ISDS). Hai Hiệp định đáng chú ý thời gian gần đây là Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có chương 9 về Đầu tư có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 tại Việt Nam và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) (được tách ra từ Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Liên minh châu Âu – EVFTA) đang đợi tất cả các quốc gia thành viên phê chuẩn trước khi có hiệu lực. Đầu tiên, về nguyên tắc minh bạch trong giải quyết tranh chấp, CPTPP và EVIPA đều có các điều khoản hoàn thiện tính minh bạch của quá trình tố tụng. Theo đó tất cả các tài liệu (được đệ trình bởi các bên, quyết định của hội đồng trọng tài) sẽ được công khai, trừ các tài liệu bảo mật. Các phiên điều trần sẽ được thực hiện công khai cho các bên có liên quan có thể tham dự. EVIPA đã áp dụng Quy tắc minh bạch UNCITRAL trong khi CPTPP không áp dụng Quy tắc này mà chỉ áp dụng một số quy định tại Điều 9.24 Hiệp định (Điều 9.24 CPTPP, Điều 3.46 EVIPA). Thứ hai, EVIPA đã thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực, khác với cơ chế vụ việc trong CPTPP. Theo EVIPA, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm. Hiệp định EVIPA đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam quy định cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực trong một Hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam. Thứ ba là phán quyết của hội đồng xét xử. Theo EVIPA, phán quyết cuối cùng sẽ được các bên tuân thủ, không kháng cáo, rà soát, bãi bỏ, huỷ bỏ hay bất kỳ biện pháp sửa đổi nào. Việt Nam được gia hạn 5 năm tính từ khi Hiệp định có hiệu lực hoặc thời gian dài hơn do Ủy ban thương mại quyết định. Trong thời gian đó, nếu Việt Nam là bị đơn thì việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài sẽ tuân theo Công ước New York 1958 (Điều 3.57). Hết thời hạn 5 năm, việc thực thi phán quyết theo cơ chế Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước). Biện pháp bảo hộ ngoại giao không được phép áp dụng trừ trường hợp một bên không thực thi phán quyết cuối cùng của trọng tài (Điều 3.58). Trong khi đó, theo Điều 9.29, CPTPP vẫn cho phép khả năng sửa đổi, hủy bỏ phán quyết. CPTPP có nhiều cơ chế thực thi hơn, bao gồm cả Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước), Công ước New York năm 1958 và Công ước liên châu Mỹ (cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước). Cuối cùng, cả EVIPA và CPTPP đều tăng tính độc lập, vô tư và chất lượng của trọng tài hoặc thành viên của hội đồng khi ban hành bộ quy tắc ứng xử. Trong EVIPA, bộ quy tắc ứng xử này được quy định cụ thể trong Phụ lục 11 trong khi với CPTPP, bộ quy tắc này không được quy định nhưng sẽ được bổ sung hướng dẫn sau đó bởi các bên ký kết tr Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư theo Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVIPA - Công Ty Luật TNHH ANT

 Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư theo Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVIPA



FTAs thế hệ mới không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ mà còn mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với cả đầu tư. Phần lớn các FTAs này cũng bao gồm các nguyên tắc tự do hoá đầu tư và bảo hộ nhà đầu tư thông qua việc quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (ISDS). Hai Hiệp định đáng chú ý thời gian gần đây là Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có chương 9 về Đầu tư có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 tại Việt Nam và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) (được tách ra từ Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Liên minh châu Âu – EVFTA) đang đợi tất cả các quốc gia thành viên phê chuẩn trước khi có hiệu lực.

Đầu tiên, về nguyên tắc minh bạch trong giải quyết tranh chấp, CPTPP và EVIPA đều có các điều khoản hoàn thiện tính minh bạch của quá trình tố tụng. Theo đó tất cả các tài liệu (được đệ trình bởi các bên, quyết định của hội đồng trọng tài) sẽ được công khai, trừ các tài liệu bảo mật. Các phiên điều trần sẽ được thực hiện công khai cho các bên có liên quan có thể tham dự. EVIPA đã áp dụng Quy tắc minh bạch UNCITRAL trong khi CPTPP không áp dụng Quy tắc này mà chỉ áp dụng một số quy định tại Điều 9.24 Hiệp định (Điều 9.24 CPTPP, Điều 3.46 EVIPA).

Thứ hai, EVIPA đã thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực, khác với cơ chế vụ việc trong CPTPP. Theo EVIPA, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm. Hiệp định EVIPA đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam quy định cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực trong một Hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam.

Thứ ba là phán quyết của hội đồng xét xử. Theo EVIPA, phán quyết cuối cùng sẽ được các bên tuân thủ, không kháng cáo, rà soát, bãi bỏ, huỷ bỏ hay bất kỳ biện pháp sửa đổi nào. Việt Nam được gia hạn 5 năm tính từ khi Hiệp định có hiệu lực hoặc thời gian dài hơn do Ủy ban thương mại quyết định. Trong thời gian đó, nếu Việt Nam là bị đơn thì việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài sẽ tuân theo Công ước New York 1958 (Điều 3.57). Hết thời hạn 5 năm, việc thực thi phán quyết theo cơ chế Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước). Biện pháp bảo hộ ngoại giao không được phép áp dụng trừ trường hợp một bên không thực thi phán quyết cuối cùng của trọng tài (Điều 3.58). Trong khi đó, theo Điều 9.29, CPTPP vẫn cho phép khả năng sửa đổi, hủy bỏ phán quyết. CPTPP có nhiều cơ chế thực thi hơn, bao gồm cả Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước), Công ước New York năm 1958 và Công ước liên châu Mỹ (cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước).

Cuối cùng, cả EVIPA và CPTPP đều tăng tính độc lập, vô tư và chất lượng của trọng tài hoặc thành viên của hội đồng khi ban hành bộ quy tắc ứng xử. Trong EVIPA, bộ quy tắc ứng xử này được quy định cụ thể trong Phụ lục 11 trong khi với CPTPP, bộ quy tắc này không được quy định nhưng sẽ được bổ sung hướng dẫn sau đó bởi các bên ký kết trên cơ sở Quy tắc ứng xử về thủ tục giải quyết tranh chấp theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) (Khoản 6 Điều 9.22).

 

 

0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

  

Theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, các quyền này có thể được chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân khác không phải là người sáng tạo hay sở hữu các đối tượng đó.



Chuyển giao quyền quyền sở hữu công nghiệp bao gồm hai loại, đó là “chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp” và “chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp”.

Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác. Tức, bên chuyển nhượng sẽ phải chuyển giao toàn bộ quyền đối với đối tượng sở hữu công nghiệp sang cho bên nhận chuyển nhượng và sau khi hai bên hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng sẽ có toàn quyền quyết định đối với đối tượng sở hữu công nghiệp đó.

Tuy nhiên, khi chuyển nhượng, các bên cần lưu ý những vấn đề như sau: (i) Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chỉ được chuyển nhượng quyền của mình trong phạm vi được bảo hộ; (ii) Quyền đối với chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng do đối tượng này mang tính vật lý và không thể dịch chuyển; (iii) Quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó; (iv) Việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu không được gây ra sự nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu và; (v) Quyền đối với nhãn hiệu chỉ được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó.

Chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình. Khác với chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng chỉ là chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp tạm thời trao quyền cho tổ chức, cá nhân khác được sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp mà mình sở hữu trong một thời hạn nhất định. Tương tự như chuyển nhượng quyền, trường hợp chuyển quyền sử dụng cũng có những hạn chế nhất định chẳng hạn như: (i) Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, tên thương mại không được chuyển giao; (ii) Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó; (iii) Bên được chuyển quyền không được ký kết hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, tuy nhiên nếu bên chuyển quyền cho phép thì việc ký kết hợp đồng thứ cấp vẫn có thể thực hiện; (iv) Bên được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có nghĩa vụ ghi chỉ dẫn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá về việc hàng hoá đó được sản xuất theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu; (v) Bên được chuyển quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng độc quyền có nghĩa vụ sử dụng sáng chế như chủ sở hữu sáng chế.

Theo những phân tích trên có thể thấy, các bên cần phải xác định rõ mục đích, phạm vi và đối tượng muốn chuyển giao trước để lựa chọn hình thức phù hợp với mong muốn của các bên, và sau đó tiến hành ký kết các thoả thuận chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp, hoặc thoả thuận chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua sự hỗ trợ của các luật sư chuyên về sở hữu trí tuệ trong sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền để tránh các tranh chấp, phục vụ mục đích kinh doanh và phát triển.



0 nhận xét
Nhãn: , ,

Chuyển nhượng dự án đầu tư tại Việt Nam

 Theo quy định của pháp luật đầu tư hiện hành, nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư cho nhà đầu tư khác khi đáp ứng các điều kiện nhất định và thực hiện điều chỉnh dự án đầu tư theo quy định của pháp luật.



Điều kiện thực hiện:

·         Dự án đầu tư không thuộc trường hợp bị chấm dứt hoạt động theo quy định tại khoản 1, Điều 48 Luât đầu tư 2014;

·         Nhà đầu tư nhận chuyển nhượng phải đáp ứng được các điều kiện trong trường hợp chuyển nhượng dự án thuộc ngành nghề đầu tư có điều kiện;

·         Tuân thủ các điều kiện theo quy định của pháp luật đất đai, pháp luật về kinh doanh bất động sản trong trường hợp chuyển nhượng dự án gắn với chuyển nhượng quyền sử dụng đất;

·         Đáp ứng các điều kiện quy định tại GCN đăng ký đầu tư hoặc theo quy định khác của pháp luật có liên quan nếu có

Chuẩn bị hồ sơ:

·         Văn bản đề nghị điều chỉnh dự án đầu tư;

·         Báo cáo tình hình thực hiện dự án đầu tư đến thời điểm chuyển nhượng dự án đầu tư;

·         Hợp đồng chuyển nhượng dự án đầu tư hoặc tài liệu khác có giá trị pháp lý tương đương;

·         Bản sao chứng minh nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với nhà đầu tư là cá nhân, bản sao GCN đăng ký doanh nghiệp hoặc tài liệu khác có giá trị pháp lý tương đương đối với nhà đầu tư là tổ chức của nhà đầu tư nhận chuyển nhượng;

·         Bản sao GCN đăng ký đầu tư hoặc văn bản quyết định chủ trương đầu tư (nếu có);

·         Bản sao hợp đồng BCC đối với dự án theo hình thức hợp đồng BCC;

·         Bản sao một trong các tài liệu sau của nhà đầu tư nhận chuyển nhượng dự án đầu tư, báo cáo tài chính 02 năm gần nhất của nhà đầu tư, cam kết hỗ trợ tài chính của công ty mẹ, cam kết hỗ trợ tài chính của tổ chức tài chính, bảo lãnh về năng lực tài chính của nhà đầu tư, tài liệu thuyết minh năng lực tài chính của nhà đầu tư.

Trình tự, thủ tục:

·         Nhà đầu tư chuyển nhượng dự án đầu tư nộp hồ sơ tại Sở Kế hoạch và Đầu tư (hoặc Ban quản lý khu kinh tế);

·         Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ đối với dự án đầu tư hoạt động theo GCN đăng ký đầu tư và không thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư (hoặc 28 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ đối với dự án đầu tư thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh; 47 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ đối với dự án đầu tư thuộc diện quyết định chủ trương của Thủ tướng Chính phủ), cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định điều chỉnh giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho nhà đầu tư chuyển nhượng dự án.

Trước khi chuyển nhượng dự án, các nhà đầu tư cần nắm rõ về tình hình pháp lý ngoài các vấn đề về tài chính, nhân sự và các vấn đề trọng yếu khác của dự án, là đối tượng của chuyển nhượng.  Do vậy, để đảm bảo việc chuyển nhượng có hiệu quả, các nhà đẩu tư thường sử dụng công ty luật với các luật sư có chuyên môn cao để nghiên cứu thẩm định pháp lý (due diligence) toàn diện, đánh giá về các vấn đề liên quan tới các giấy tờ pháp lý của chủ sở hữu, góp vốn của cổ đông hay thành viên, tài sản hữu hình (quyền sử dụng đất, nhà xưởng và máy móc, thiết bị…) và tài sản vô hình (bao gồm các quyền về sở hữu công nghiệp), giấy phép, hợp đồng hay các giao dịch có giá trị lớn, thuế, và các rủi ro pháp lý như tranh chấp, kiện tụng khác.

Việc chuyển nhượng dự ánđầu tư là thủ tục hành chính với cơ quan nhà nước chỉ thuận lợi khi các bên trong giao dịch chuyển nhượng đạt được các thỏa thuận, và trên thực tế , việc chuyển nhượng dự án đầu tư nhanh hay chậm phụ thuộc nhiều vào quá trình thẩm định, đánh giá của các bên liên quan tới dự án.

 

0 nhận xét
 
© 2012 |Thành Lập Công Ty |Designed by Plantillas Blogger and Aplicaciones Android