Thành Lập Hộ Kinh Doanh Cá Thể

Thủ tục đăng kí hộ kinh doanh cá thể như thế nào?

Đăng Kí Khai Sinh Có Yếu Tố Nước Ngoài

Thủ tục đăng kí khai sinh có yếu tố nước ngoài như thế nào?

Dịch Vụ Tư Vấn Giải Quyết Tranh Chấp

Thủ tục giải quyết tranh chấp như thế nào?

Hiển thị các bài đăng có nhãn Luật sư tư vấn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Luật sư tư vấn. Hiển thị tất cả bài đăng
Nhãn: , , , ,

Thời hạn cấp thẻ tạm trú cho công dân nước ngoài kết hôn với người Việt Nam


 

Thẻ tạm trú là loại giấy tờ do cơ quan quản lý xuất nhập cảnh hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Ngoại giao cấp cho người nước ngoài được phép cư trú có thời hạn tại Việt Nam và có giá trị thay thị thực. Thẻ tạm trú được cấp có thời hạn nhất định tuỳ theo mục đích nhập cảnh. Khi có thẻ tạm trú, người nước ngoài sẽ được miễn thị thực khi nhập cảnh vào Việt Nam.

Theo quy định của Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014, thẻ tạm trú cấp cho vợ/chồng của công dân Việt Nam được ký hiệu là TT. Thẻ tạm trú do cơ quan quản lý xuất nhập cảnh nơi công dân Việt Nam cư trú cấp với thời hạn xác định. Thời hạn của thẻ tạm trú được cấp phù hợp với mục đích nhập cảnh và đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân bảo lãnh.

Để được cấp thẻ tạm trú, người nước ngoài tiến hành thủ tục xin cấp thẻ tạm trú theo hướng dẫn tại  Điều 4 Thông tư 31/2015/TT-BCA. Cụ thể, người nước ngoài kết hôn với công dân Việt Nam phải thông qua công dân Việt Nam đó để làm thủ tục tại Cục Quản lý xuất nhập cảnh hoặc Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi người đó cư trú.

Hồ sơ đề nghị cấp thẻ tạm trú bao gồm: Văn bản đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân làm thủ tục mời, bảo lãnh (Mẫu NA7); Tờ khai đề nghị cấp thẻ tạm trú có dán ảnh (Mẫu NA8); Hộ chiếu và Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn do cơ quan có thẩm quyền cấp. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Cục Quản lý xuất nhập cảnh hoặc Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét cấp thẻ tạm trú cho vợ/chồng của công dân Việt Nam.

Thông thường, thẻ tạm trú có thời hạn từ 01 năm đến 05 năm nhưng ngắn hơn thời hạn của hộ chiếu ít nhất 30 ngày. Thẻ tạm trú ký hiệu TT được cấp với thời hạn không quá 03 năm. Trường hợp hết hạn thẻ tạm trú thì được cơ quan có thẩm quyền xem xét và cấp thẻ mới theo quy định của pháp luật. Cụ thể, công dân Việt Nam trực tiếp gửi văn bản đề nghị gia hạn tạm trú kèm theo hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế của người nước ngoài đếm cơ quan có thẩm quyền.  Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan quản lý xuất nhập cảnh hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Ngoại giao xem xét gia hạn tạm trú.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Các tranh chấp hợp đồng thường gặp và giải pháp tư vấn

  


Trong hoạt động đời sống, tranh chấp hợp đồng xảy ra là ngoài ý muốn của các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng. Ở các nước phát triển, luật sư luôn được khách hàng tư vấn để nhận diện tranh chấp tiềm tàng, và đưa các giải pháp, hỗ trợ tư vấn pháp lý và đồng hành cùng doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp trong các giai đoạn của giao dịch phù hợp với các quy định của pháp luật, và giúp doanh nghiệp tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tranh chấp hợp đồng

Tranh chấp hợp đồng được hiểu là những xung đột, bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng.

Tranh chấp hợp đồng phải có đủ các yếu tố sau:

Có hợp đồng giữa các bên. Hợp đồng được giao kết dưới nhiều hình thức khác nhau như: văn bản và các hình thức tương đương văn bản, hợp đồng miệng hay hợp đồng hành vi. Do vậy, cần phải xác định rõ có quan hệ hợp đồng hình thành hay không.

Có sự vi phạm nghĩa vụ hoặc cho rằng là vi phạm nghĩa vụ của một bên trong quan hệ hợp đồng.

Có sự bất đồng giữa các bên về sự vi phạm hoặc xử lý hậu quả của sự vi phạm đó.

Cần lưu ý, các tranh chấp hợp đồng phát sinh từ sự vi phạm. Tuy nhiên, không phải sự vi phạm hợp đồng nào cũng dẫn đến tranh chấp.

Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng

Các bên chủ thể có quyền cao nhất trong định đoạt việc giải quyết tranh chấp (Trừ những quan hệ hợp đồng ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước)

Tranh chấp hợp đồng luôn gắn với lợi ích của các bên tranh chấp

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng là tự nguyện bình đẳng và thỏa thuận.

Giải quyết tranh chấp hợp đồng .

Tranh chấp hợp đồng có thể được giải quyết bằng các phương thức sau:

Thương lượng là quá trình hay hành vi mà trong đó, hai bên tiến hành trao đổi, thỏa thuận về các mối quan tâm chung và những đặc điểm bất đồng và đi đến một thỏa thuận thống nhất. Thương lượng không có sự xuất hiện của bên thứ ba. Tuy nhiên, nếu người luật sư tham gia với vai trò đại diện thương lượng hoặc tham mưu, tư vấn thì việc thương lượng có hiệu quả cao hơn và dễ đi đến một thỏa thuận có lợi nhất.

Hòa giải cũng là một quá trình các bên chấm dứt xung đột. Hòa giải khác với thương lượng là có sự can thiệp của bên thứ ba. Người trung gian là người đứng ra giàn xếp xung đột giữa các bên.

Tổ chức tài phán.

Tòa án: là cơ quan tư pháp của Nhà nước có chức năng xét xử. Việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án sẽ tiết kiệm chi phí nhưng lại tốn thời gian. Phán quyết của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị.

Trọng tài thương mại: Đây là phương thức giải quyết tranh chấp chỉ có trong lĩnh vực kinh doanh- thương mại. Ưu điểm của phương thức này là nhanh chóng, hiệu quả. Tuy nhiên, chi phí cao hơn và phán quyết có giá trị chung thẩm.

Tranh chấp và giải quyết tranh chấp là vấn đề tự nhiên và tất yếu của bất kỳ nền quốc gia nào. Cần nhận diện, tiên liệu trước những tranh chấp có thể xảy ra. Khi có tranh chấp hợp đồng, luật sư giải quyết tranh chấp sẽ có thể giúp doanh nghiệp đưa ra những giải pháp hợp lý, hiệu quả để giải quyết.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Đà Nẵng- Singapore hợp tác cùng phát triển

 


 Ngày 12/05/2021, đại diện thành phố Đà Nẵng đã có buổi hội thảo trực tuyến với đại diện Thành phố Hồ Chí Minh và Singapore về vấn đề phát triển kinh tế, buổi hội thảo đã có sự tham dự của gần 200 doanh nghiệp, nhà đầu tư từ Singapore.

Trong buổi hội thảo, đại diện thành phố Đà Nẵng đã giới thiệu về môi trường đầu tư, kinh doanh và một số chính sách ưu đãi và cơ hội đầu tư của thành phố Đà Nẵng trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ thông tin, dịch vụ chất lượng cao (y tế, giáo dục, logistics). Hội thảo nhận được các chia sẻ về kinh nghiệm khi đầu tư vào Đà Nẵng cũng như sự hỗ trợ của chính quyền thành phố từ bà Holly Bostock, Giám đốc Ngoại vụ cấp cao Công ty Heineken Việt Nam, một trong những nhà đầu tư Singapore lớn nhất tại Đà Nẵng và về các giải pháp tài chính khi đầu tư vào Việt Nam.

Ông Douglas Foo, Phó Chủ tịch Liên đoàn Doanh nghiệp Singapore, Chủ tịch Liên đoàn Sản xuất Singapore đánh giá cao về tiềm năng môi trường đầu tư kinh doanh của thành phố và có đề nghị thành phố Đà Nẵng thành lập Trung tâm thông tin Đà Nẵng (Da Nang Desk) đặt tại Trung tâm Kết nối Việt Nam tại Liên đoàn Sản xuất Singapore (SMF) để kết nối Đà Nẵng với các doanh nghiệp Singapore.

Qua Hội thảo, Đà Nẵng quan tâm mời gọi các nhà đầu tư, các doanh nghiệp Singapore có năng lực tài chính, công nghệ đến tìm hiểu về môi trường đầu tư kinh doanh và cơ hội hợp tác tại thành phố. Phó Chủ tịch thường trực UBND thành phố Đà Nẵng Hồ Kỳ Minh đánh giá cao đề xuất việc thiết lập Trung tâm thông tin Đà Nẵng tại Singapore và giao Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư đề xuất mô hình, làm cầu nối hỗ trợ quảng bá môi trường và cơ hội đầu tư kinh doanh của Đà Nẵng đến các doanh nghiệp Singapore nói riêng và quốc tế nói chung; qua đó thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ hợp tác đầu tư giữa Đà Nẵng và Singapore trong thời gian đến.

Singapore là một trong những đối tác thương mại và đầu tư quan trọng nhất của Việt Nam. Năm 2020, mặc dù bị ảnh hưởng bởi Covid-19, Singapore đã đầu tư vào Việt Nam 248 dự án với tổng số vốn gần 9 tỷ USD, là quốc gia dẫn đầu đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Lũy kế đến cuối năm 2020, Singapore là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn thứ 3 tại Việt Nam sau Hàn Quốc và Nhật Bản với tổng số 2,629 dự án và tổng vốn đăng ký đầu tư hơn 56,5 tỷ USD. Về thương mại hai chiều, năm 2020, tổng kim ngạch hai chiều giữa Việt Nam và Singapore đạt trên 6,7 tỷ USD, trong đó trị giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 3 tỷ USD và nhập khẩu đạt 3,7 tỷ USD.

Singapore là một trong những thị trường trọng điểm thu hút đầu tư của Đà Nẵng, hiện thành phố có 28 dự án FDI Singapore với tổng vốn đăng ký hơn 838,4 triệu USD, xếp thứ 2 trong danh sách hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm khoảng 22% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Qua buổi hội thảo, Đà Nẵng hi vọng sẽ có nhiều nhà đầu tư từ Singapore thực hiện đầu tư tại Đà Nẵng để có thể giúp thành phố đạt được mục tiêu trở thành trung tâm tài chính lớn nhất Việt Nam, và nhà đầu tư có thể hưởng các ưu đãi tốt nhất từ thành phố để có thể đạt được hiệu quả đầu tư cao nhất cho mình.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , , ,

Quy định mới về thử việc

 


 Thử việc là thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm thử công việc trong một khoảng thời gian nhất định tuân thủ theo quy định của pháp luật. Trước khi giao kết hợp đồng lao động, người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận về giai đoạn thử việc để quyết định sự hợp tác, gắn bó lâu dài giữa người lao động với người sử dụng lao động. Thử việc cần tuân thủ quy định của Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Bộ luật Lao động 2019 có hiệu lực từ ngày 01/01/2020 ban hành một số quy định mới liên quan đến thử việc.

Bộ luật Lao động năm 2012 không đề cập đến việc thỏa thuận nội dung thử việc trong hợp đồng lao động. Theo đó, người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ của hai bên trong thời gian thử việc. Nếu có thoả thuận về việc làm thử thì các bên có thể giao kết hợp đồng thử việc. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động. Từ những quy định trong Bộ luật Lao động 2012 dẫn đến cách hiểu rằng, người lao động và người sử dụng nên lập hợp đồng thử việc riêng. Thử việc hoàn tất và người lao động đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của người sử dụng lao động, hai bên mới giao kết hợp đồng lao động. Theo quy định mới nhất trong Bộ luật Lao động năm 2019, người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc. Quy định này đã làm rõ hình thức giao kết hợp đồng thử việc, theo đó thử việc có thể giao kết một hợp đồng riêng rẽ hoặc trở thành một trong những điều khoản của hợp đồng lao động. Đối với trường hợp nội dung thử việc được ghi trong hợp đồng lao động thì khi kết thúc thời gian làm thử việc, nếu người lao động thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết. Nếu các bên thỏa thuận bằng hợp đồng thử việc thì giao kết hợp đồng lao động mới.

Liên quan đến các trường hợp giao kết hợp đồng thử việc, người lao động giao kết hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng không áp dụng thử việc. Ngoài ra, quy định người lao động làm việc theo hợp đồng lao động mùa vụ thì không phải thử việc đã được bãi bỏ do hiện tại không còn hình thức hợp đồng lao động mùa vụ trong luật.

Bên cạnh đó, thời hạn thử việc trước đây được giới hạn không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên. Hiện tại, thời hạn thử việc được cho phép đối với những người quản lý doanh nghiệp có thể lên tới 180 ngày. Luật Lao động đã phân định giới hạn thời gian thử việc dựa vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc. Trong đó, người quản lý doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ công ty (áp dụng đối với các doanh nghiệp không có vốn nhà nước).

Một sửa đổi khác đối đối với việc hủy bỏ thỏa thuận thử việc, Bộ luật Lao động 2019 đã bãi bỏ giới hạn quyền hủy bỏ này. Theo đó, trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường. Ngược lại, người lao động và người sử dụng lao động chỉ có thể hủy bỏ thỏa thuận lao động nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận theo Bộ luật Lao động 2012.

Quá trình thử việc là bước đệm cho việc tiến tới ký kết hợp đồng lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động nhằm đảm bảo sự phù hợp về năng lực và kinh nghiệm của người lao động đáp ứng yêu cầu của người sử dụng la động. Các doanh nghiệp với tư cách là người sử dụng lao động cần nắm rõ các nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động cũng như hợp đồng thử việc để tránh xảy ra tranh chấp lao động hoặc nếu có tranh chấp thì nên tham khảo ý kiến luật sư chuyên về tranh chấp sớm để hoả giải hoặc có phương án tranh chấp phù hợp, hiệu quả.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN

 


 Do hợp tác kinh tế được mở rộng nên việc có một cơ chế hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên đã trở nên một nhu cầu thiết yếu. Chính vì vậy, từ năm 1996, ASEAN đã bắt đầu soạn thảo Nghị định thư về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp, và Nghị định thư này đã được các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN ký ngày 20/11/1996 tại Manila (Philippines).x

Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN được xây dựng trên tinh thần thương lượng, hoà giải. Vào bất kỳ thời điểm nào, các nước thành viên là các bên tranh chấp cũng được quyền lựa chọn các hình thức dàn xếp, hoà giải hoặc trung gian hoà giải. Các hình thức này có thể bắt đầu vào bất kỳ lúc nào và cũng có thể chấm dứt vào bất kỳ lúc nào. Chỉ khi thủ tục dàn xếp, hoà giải hoặc trung gian hoà giải đã chấm dứt thì bên khiếu nại mới được tiến hành đưa vấn đề lên Hội nghị quan chức kinh tế cấp cao của các quốc gia ASEAN (SEOM). Trong khi tranh chấp đang diễn ra, nếu các bên tranh chấp đồng ý thì các thủ tục trung gian hoà giải vẫn được tiếp tục áp dụng.

Nếu tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng sáu mươi (60) ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, thì vấn đề này sẽ được trình lên SEOM. SEOM sẽ thành lập Ban hội thẩm hoặc nếu có thể, chuyển vấn đề cho ban chuyên trách phụ trách các quy tắc và thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung để xem xét. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể, nếu thấy cần thiết thì SEOM có thể quyết định xử lý tranh chấp một cách hữu nghị mà không phải chỉ định Ban hội thẩm.

SEOM sẽ xem xét báo cáo của Ban hội thẩm trong quá trình thảo luận của mình và đưa ra phán xử về tranh chấp trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ ngày Ban hội thẩm trình báo cáo. Trong các trường hợp ngoại lệ, SEOM có thể có thêm mười (10) ngày nữa trong việc đưa ra phán xử về việc giải quyết tranh chấp. Các đại diện SEOM của các nước thành viên là các bên tranh chấp có thể có mặt trong quá trình thảo luận nhưng không được tham gia vào việc đưa ra phán xử của SEOM. SEOM sẽ ra phán xử trên cơ sở đa số.

Các nước thành viên là các bên tranh chấp có thể kháng nghị lại phán xử của SEOM với Các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (“AEM”) trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ ngày SEOM ra phán xử. AEM phải đưa ra quyết định trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ ngày có kháng nghị. Trong các trường hợp ngoại lệ, AEM có thể có thêm mười (10) ngày nữa để đưa ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Quy trình giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đầu tư theo quy định mới

 


 Quy trình giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đầu tư (đồng thơi là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) theo quy định mới

  1. Trường hợp chỉ yêu cầu thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện thủ tục tại Cơ quan đăng ký kinh doanh để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Hồ sơ, trình tự, thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh thực hiện theo quy định tương ứng của Luật doanh nghiệp 2014.

Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để thay thế nội dung đăng ký kinh doanh tại Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh). Nội dung đăng ký kinh doanh tại quy định Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) hết hiệu lực kể từ ngày doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; nội dung dự án đầu tư tại Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) tiếp tục có hiệu lực.

Trường hợp doanh nghiệp có yêu cầu thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh do nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp quy định tại Khoản 1 Điều 26 Luật đầu tư 2014, nhà đầu tư thực hiện thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp theo quy định tại Điều 26 Luật đầu tư 2014 trước khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

  1. b) Trường hợp chỉ yêu cầu điều chỉnh nội dung dự án đầu tư, doanh nghiệp thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư tại Cơ quan đăng ký đầu tư. Hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư thực hiện theo quy định của Luật đầu tư 2014 tương ứng với nội dung điều chỉnh.

Cơ quan đăng ký đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho doanh nghiệp thay thế cho nội dung dự án đầu tư trong Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh). Nội dung đăng ký kinh doanh tại Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) tiếp tục có hiệu lực.

  1. c) Trường hợp có yêu cầu điều chỉnh cả nội dung đăng ký kinh doanh và nội dung dự án đầu tư, nhà đầu tư thực hiện thủ tục điều chỉnh nội dung đăng ký kinh doanh tại Cơ quan đăng ký kinh doanh để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; sau đó điều chỉnh nội dung dự án đầu tư tại Cơ quan đăng ký đầu tư để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định tương ứng nêu tại Điểm a và b Mục này.
  2. d) Trường hợp có yêu cầu đổi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay cho Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh), nhà đầu tư thực hiện thủ tục đổi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tại Cơ quan đăng ký kinh doanh, sau đó đổi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư tại Cơ quan đăng ký đầu tư.

Hồ sơ đổi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp gồm văn bản đề nghị đổi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, bản sao G
iấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) và Giấy chứng nhận đăng ký thuế.

Hồ sơ đổi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư gồm văn bản đề nghị đổi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (đã cấp theo Điểm này) và Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh).

Cơ quan đăng ký kinh doanh và Cơ quan đăng ký đầu tư đổi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho nhà đầu tư trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ. Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp quy định lại nội dung đăng ký kinh doanh đang có hiệu lực tại Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh); Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư quy định lại nội dung dự án đầu tư đang có hiệu lực tại Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh).

0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Cách tính mức hưởng trợ cấp thất nghiệp

 

 

Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng của người lao động được xác định như sau:


Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng

=

Mức lương bình quân của 06 tháng liền kề có đóng bảo hiểm thất nghiệp trước khi thất nghiệp

x

60%

Trường hợp những tháng cuối cùng trước khi thất nghiệp, người lao động có thời gian gián đoạn đóng bảo hiểm thất nghiệp thì 06 tháng liền kề để tính mức hưởng trợ cấp thất nghiệp là bình quân tiền lương của 06 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trước khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật.

Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng của người lao động tối đa:

– Không quá 05 lần mức lương cơ sở đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định; hoặc

– Không quá 05 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật Lao động đối với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.

Thông tư 28/2015/TT-BLĐTBXH  có hiệu lực từ ngày 15/09/2015 và các chế độ quy định tại Thông tư này được áp dụng từ ngày 01/01/2015.


0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Các biện pháp phòng vệ thương mại

  


Khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đều tự nguyện cắt bỏ những rào cản thương mại để hàng hóa có thể tự do lưu thông giữa các nước. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới, các nước vẫn được quyền áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại khi đáp ứng các điều kiện nhất định. Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO từ ngày 11/07/2007 và việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại này được quy định chi tiết tại Luật quản lý ngoại thương 2018.

Theo quy định của Luật quản lý ngoại thương 2018, các biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm biện pháp chốngbán phá giá, biện pháp chống trợ cấp và biện pháp tự vệ. Cụ thể (i) biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được xác định bị bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại đáng kể hoặc hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước; (ii) biện pháp chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được trợ cấp khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước; (iii) biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được nhập khẩu quá mức vào Việt Nam gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước.

Ngành sản xuất trong nước được đề cập tại ba trường hợp trên đó là tập hợp các nhà sản xuất hàng hóa tương tự trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam hoặc .đại diện của họ chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng sản lượng hàng hóa của ngành đó được sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, thiệt hại ngành sản xuất trong nước được xác định theo từng mức độ đó là (i) Thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước; (ii) Đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước; (iii) Ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước; (iv) Thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước; (v) Đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước

Do việc áp dụng các biện pháp này gây ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà sản xuất/xuất khẩu nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam cũng như ngành sản xuất trong nước nên khi áp dụng các biện pháp này cần phải thực hiện theo 06 nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất, áp dụng trong phạm vi, mức độ cần thiết, hợp lý, có thời hạn nhằm bảo vệ, ngăn ngừa hoặc hạn chế thiệt hại của ngành sản xuất trong nước;

Thứ hai, chỉ được áp dụng sau khi đã tiến hành điều tra minh bạch, công bằng, phù hợp với quy định của pháp luật và phải dựa trên các kết luận điều tra;

Thứ ba, công bố công khai các quyết định về việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.

Thứ tư, không thu khoản chênh lệch về thuế nếu mức thuế phòng vệ thương mại chính thức cao hơn mức thuế phòng vệ thương mại tạm thời.

Thứ năm, hoàn lại khoản chênh lệnh về thuế nếu mức thuế phòng vệ thương mại chính thức thấp hơn mức thuế phòng vệ thương mại tạm thời.

Thứ sáu, trường hợp Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định không áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại chính thức thì thuế phòng vệ thương mại tạm thời đã thu hoặc các khoản bảo đảm thanh toán thuế phòng vệ thương mại tạm thời phải được hoàn lại.

Nếu quý khách cần thêm bất cứ thông tin hoặc có yêu cầu tư vấn liên quan phòng vệ thương mại có thể liên lạc trực tiếp tới công ty luật để được hỗ trợ.



0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Trao đổi về vấn đề áp dụng pháp luật trong quan hệ hợp đồng thương mại

  

Ở Việt Nam, quan hệ hợp đồng thương mại nói chung được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm khác nhau đó tạo nên cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động thương mại nói chung được thực hiện trên cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên tham gia mà nhà nước cho phép.

Tuy nhiên, do các văn bản này điều chỉnh về cùng một vấn đề của hoạt động thương mại, dẫn đến sự quy định khác nhau về cùng một vấn đề. Do đó, xác định luật áp dụng trong hợp đồngthương mại là một trong những vấn đề các bên tham gia giao kết phải chú ý, tránh xảy ra tranh chấp. Hai văn bản quy phạm pháp luật thường được áp dụng trong quan hệ thương mại gồm Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại. Ngoài hai văn bản quy phạm pháp luật này vẫn còn các ngành luật khác như Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh Bất động sản,… làm căn cứ điều chỉnh hợp đồng thương mại tùy từng trường hợp cụ thể.

Khi nào áp dụng Luật Thương mại?

 Thứ nhất, về các trường hợp đương nhiên áp dụng Luật Thương mại

Căn cứ Điều 1, Điều 2 Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam giữa các bên là thương nhân (bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh) thì Luật Thương mại đương nhiên được áp dụng.

Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định này là hoạt động thương mại không có yếu tố nước ngoài theo quy định tại Điều 663 Bộ luật Dân sự, là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Cần chú ý rằng, theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mai 2005, những thứ được coi là hàng hóa bao gồm tất cả các loại động sản (kể cả động sản hình thành trong tương lai) và những vật gắn liền với đất đai, điều đó có nghĩa rằng quyền sử dụng đất không phải là hàng hóa và không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại.

Ngoài tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và các cá nhân hoạt động có đăng ký kinh doanh, thì các cá nhân hoạt động không có đăng ký kinh doanh như buôn bán rong, buôn bán vặt, đánh giày, bán vé số, chữa khóa,… phải tuân theo quy định của Nghị định 39/2007/NĐ-CP, pháp luật về th­ương mại áp dụng đối với thương nhân và pháp luật có liên quan.

Thứ hai, các trường hợp thỏa thuận áp dụng Luật Thương mại

Căn cứ Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này. “Bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi” được hiểu rằng không phải thương nhân. Quyền lựa chọn Luật Thương mại có được áp dụng hay không trong trường hợp này thuộc về bên không phải thương nhân.

Luật Thương mại là luật riêng có của Việt Nam, do đó với những quan hệ có yếu tố nước ngoài, Luật Thương mại không được quyền đương nhiên áp dụng. Các bên trong giao dịch thươngmại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Tùy theo thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên mà Luật Thương mại có thể được áp dụng.

 Khi nào ap dụng Bộ luật Dân sự?

 Trước hết, mối quan hệ giữa Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại là mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng. Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Dân sự thì quan hệ dân sự bao gồm cả quan hệ kinh doanh, thương mại. Đồng thời, theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật Thương mại thì “hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự”. Các quy định này xác lập mối quan hệ luật chung, luật riêng giữa Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại. Do đó, trong những trường hơp Luật Thương mại chưa có quy định điều chỉnh, thì Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng.

Viện dẫn nguyên tắc này, trong trường hợp “Bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi” trong trường hợp được đề cập bên trên lựa chọn không áp dụng Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng.

Tùy từng trường hợp cụ thể mà các Bộ luật Dân sự hoặc Luật Thương mại có thể được áp dụng. Nhằm tránh xảy ra tranh chấp từ những cách hiểu khác nhau, các bên trong hợp đồng cần phải tìm hiểu rõ quy định của pháp luật để có sự viện dẫn phù hợp.



0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Những hoạt động nào được cho phép khi thực hiện cách ly xã hội theo Chỉ thị 16?

 


 Ngày 31 tháng 03 năm 2020, Thủ tướng Việt Nam ban hành chỉ thị để thực hiện một số biện pháp khẩn cấp để ngăn chặn và kiểm soát dịch Covid-19. Việc cách ly xã hội là chưa có tiền lệ, và chủ yếu dựa trên sự tự giác tuân của mỗi người dân. Theo đó, việc cách ly xã hội được thực hiện tại Việt Nam bắt đầu từ ngày 1 tháng 04 đến ngày 15 tháng 04 năm 2020. Điều này không cấm đi ra ngoài, nhưng nó đề nghị người dân chỉ nên đi ra ngoài trong một số trường hợp cần thiết trên thực tế như mua thực phẩm, nhiên liệu, thuốc và những trường hợp khẩn cấp khác. Các cơ quan nhà nước sẽ làm việc tại nhà, những doanh nghiệp tư nhân cũng được đề nghị để mọi người làm việc tại nhà. Những doanh nghiệp kinh doanh được phép mở để cung cấp những sản phẩm và dịch vụ thiết yếu. Đối với những nhà máy sản xuất và văn phòng cần phải làm việc thì tiếp tục thực hiện sản xuất hoặc kinh doanh, nhưng cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn như không tập trung quá hai người, giữ khoảng cách tối thiểu 2m, luôn luôn sử dụng khẩu trang, làm sạch tay thường xuyên và khử trùng nơi làm việc.

Từ khía cạnh pháp lý, sẽ có nhiều vấn đề tiêu cực không lường trước được và nhiều hậu quả pháp lý xảy ra trong việc tranh chấp về quan hệ lao động, tranh chấp trong thực hiện hợp đồng, tranh chấp trong giao dịch kinh doanh, tranh chấp giữa các cá nhân và cơ quan có thẩm quyền… phát sinh do việc mâu thuẫn do cách ly xã hội. Có ý kiến cho rằng các bên tham khảo các hợp đồng, quy định và chuẩn bị cho các tình huống thích hợp. Trong trường hợp này, các bên tranh chấp cân nhắc để đàm phán nhằm đạt được những thỏa thuận chung và cân nhắc tầm quan trọng của các quy định pháp luật và an toàn, hơn là những rủi ro trong kinh doanh gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Nếu không đạt được thỏa thuận, các luật sư giải quyết tranh chấp sẽ là lựa chọn phù hợp để tham khảo ý kiến giải quyết.


0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Vai trò của hợp đồng lao động trong hoạt động quản trị doanh nghiệp

 




Bất kì hoạt động quản lý nào, dù là quản lý nói chung hay quản lý lao động nói riêng muốn thực hiện được thì chủ thể quản lý đều phải thiết lập các công cụ, phương tiện để quản lý. Trong lĩnh vực luật lao động, chủ thể có quyền quản lý người lao động (sau đây gọi chung là “NLĐ”) bao gồm nhà nước và người sử dụng lao động (sau đây gọi chung là “NSDLĐ”). Song, nếu Nhà nước thiết lập công cụ quản lý lao động bằng hệ thống pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành thì NSDLĐ có quyền thiết lập các công cụ quản lý lao động phù hợp với điều kiện cụ thể  trong đơn vị của mình trên cơ sở quy định của pháp luật. Công cụ quản lý lao động của NSDLĐ bao gồm các văn bản do NSDLĐ đơn phương ban hành như nội quy lao động, quy chế, quyết định và các văn bản được thiết lập dựa trên cơ sở thoả thuận với bên NLĐ, tập thể lao động như thoả ước lao động tập thể, hợp đồng lao động và các thoả thuận khác.

Hợp đồng lao động là một trong những công cụ quản lý lao động hữu hiệu trong doanh nghiệp. Là sự thoả thuận giữa NLĐ và NSDLĐ về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Chính do yếu tố quản lý lao động trong hợp đồng lao động nên để duy trì, ổn định quan hệ lao động và bảo vệ lợi ích của cả hai bên, nhất là lợi ích của NLĐ, pháp luật lao động hiện hành đã giới hạn quyền quản lý lao động của NSDLĐ trong hợp đồng lao động. Theo đó, các vấn đề về nội dung, hình thức, thời hạn, nguyên tắc ký kết, thời giờ làm việc, tiền lương, bảo hiểm, các trường hợp thay đổi, tạm hoãn hoặc chấm dứt,… được quy định cụ thể nhưng rải rác ở rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Có thể thấy vai trò quan trọng của hợp đồng lao động thể hiện ở:

– Hợp đồng lao động ghi nhận những cam kết làm cơ sở cho việc thực hiện và đảm bảo các quyền, nghĩa vụ của các bên, thể hiện ý chí của các bên, sự bình đẳng, tự do của NLĐ và NSDLĐ trong quá trình xác lập và duy trì mối quan hệ lao động.

– Hợp đồng lao động là cơ sở để NSDLĐ thực hiện quyền quản lý lao động. Khi đã giao kết hợp đồng lao động NLĐ đã trở thành người bị quản lý. Chỉ có thiết lập quan hệ dựa trên hợp đồng lao động thì NSDLĐ mới có được quyền quản lý đó.

– Hợp đồng lao động là cơ sở để giải quyết các chế độ liên quan đến NLĐ, đặc biệt là chế độ bảo hiểm xã hội, bởi vì các yếu tố về tiền lương thể hiện trong hợp đồng lao động là điều kiện quan trọng để xác định mức đóng bảo hiểm xã hội của NLĐ và được sử dụng như là cơ sở căn bản để tính toán mức đóng và mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội của NLĐ.

– Hợp đồng lao động là cơ sở để giải quyết các tranh chấp giữa hai bên trong quan hệ lao động. Đặc biệt, hợp đồng lao động bằng văn bản vừa đóng vai trò là chứng cứ chứng minh, vừa đóng vai trò là “quy phạm” để giải quyết các vụ việc tranh chấp.

Có vai trò rất quan trọng nhưng thực tế, ở hầu hết các doanh nghiệp, các nội dung trong hợp đồng lao động về mức lương, hình thức trả lương, chế độ nâng lương, nâng bậc lương, đào tạo nghề, bảo hiểm xã hội,… đều ghi chung chung “theo quy định của pháp luật hiện hành” hoặc “theo quy định của công ty”, các nội dung về phụ cấp lương, tiền thưởng, các khoản bổ sung khác đều ghi “đã tính vào lương”. Nội dung công việc phải làm ghi “theo sự phân công của trưởng bộ phận” hoặc “theo nghề nghiệp của công nhân”,…

Khi các quy định của pháp luật đều ở mức tối thiểu về quyền lợi, tối đa về nghĩa vụ thì quyền, lợi ích, nghĩa vụ cụ thể của NLĐ trong  hợp đồng lao động hoàn toàn do NSDLĐ quyết định. Khác với lĩnh vực dân sự, luật lao động có những nguyên tắc riêng, nên mặc dù hợp đồng lao động được ghi nhận là sự thỏa thuận giữa các bên liên quan, nhưng những thỏa thuận này đều có những giới hạn nhất định mà các bên không được vượt quá được quy định trong các văn bản luật và dưới luật. Điều đó đã thể hiện sự can thiệp của các nhà nước vào quyền và trách nhiệm của NSDLĐ trong quá trình ký kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng lao động. Hay nói cách khác, khung pháp lý cho sự thoả thuận các nội dung trong hợp đồng lao động rõ ràng là hẹp hơn rất nhiều so với khung pháp lý cho sự thoả thuận các nội dung trong hợp đồng dân sự. Điều đó lí giải tại sao ra đời trên cơ sở thoả thuận mang tính cá nhân giữa NLĐ và NSDLĐ về quyền và nghĩa vụ của hai bên, song pháp luật lao động lại quy định khá cụ thể các vấn đề pháp lý về hợp đồng lao động so với các văn bản nội bộ khác như thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế, quyết định.

Do đó, để có một bản hợp đồng lao động đầy đủ các nội dung, phù hợp và thiết thực với mô hình của chính doanh nghiệp thì không phải doanh nghiệp nào cũng đủ am hiểu để có thể tự mình soạn được một bản hợp đồng lao động được pháp luật cho phép. Việc soạn thảo hợp đồng lao động đòi hỏi rất nhiều kỹ năng cùng những hiểu biết chuyên sâu về các quy định pháp luật có liên quan, không những phải đảm bảo được lợi ích của các bên mà còn phải dự kiến được những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để từ đó có thể điều chỉnh các điều khoản hợp đồng cân bằng giữa hoàn cảnh thực tiễn và quy định của pháp luật.


0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Sự cần thiết của việc hòa giải thương mại trong thực hiện các hợp đồng giao dịch quốc tế

 

Theo báo cáo gần đây của World bank về chỉ số giải quyết tranh chấp hợp đồng, thời gian trung bình để giải quyết một vụ tranh chấp hợp đồng thương mại tại Tòa án là 400 ngày và phải trải qua 25 thủ tục tố tụng tại tòa.

Việc giải quyết tranh chấp ở Tòa án hiện nay còn rất nhiều vướng mắc liên quan đến việc giải quyết và thi hành án, việc có quá nhiều thủ tục và hiệu quả thi hành án chưa cao, điều này dẫn đến việc các bên tranh chấp trong hợp đồng thương mại mất nhiều thời gian và chi phí giải quyết. Vì vậy, việc lựa chọn giải quyết tranh chấp ở các Trung tâm hòa giải là điều cần thiết để giải quyết vấn đề này.

Hiện nay, các cơ quan liên quan cũng có những biện pháp tích cực để kêu gọi việc áp dụng các biện pháp hòa giải thương mại trong hợp đồng thương mại quốc tế, nhằm giải quyết hiệu quả, nhanh chóng hơn những tranh chấp trong thương mại quốc tế. Việc áp dụng giải quyết tranh chấp thương mại tại các Trung tâm hòa giải ở Việt Nam sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí giải quyết tranh chấp, Ngoài ra, việc giải quyết tranh chấp ở các Trung tâm hòa giải cũng sẽ giúp các bên giữ vững được uy tín, niềm tin của nhau trong việc giao dịch trong tương lai.

Tính tới tháng 8 năm 2019, ở Việt Nam có 7 Trung tâm hòa giải thương mại được Bộ Tư pháp cấp giấy phép thành lập, với đội ngũ hòa viên, luật sư được cấp chứng chỉ trong nước và quốc tế, có thể giải quyết những tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế, từ đó giúp cho các tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế có thể được giải quyết nhanh chóng, dễ dàng. Việc lựa chọn các trung tâm hòa giải trong việc giải quyết tranh chấp, sẽ giúp cho các bên tiết kiệm thời gian, chí phí và giữ được uy tín của mình trong việc kinh doanh sau này.

0 nhận xét
Nhãn: , ,

Kinh doanh theo phương thức đa cấp có phải là lừa đảo không?

 

Bán hàng đa cấp là phương thức kinh doanh gì? Có phải lừa đảo không? Pháp luật quy định như thế nào về phương thức kinh doanh này?

Nghị định 40/2018/NĐ-CP về hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp, trong đó, điều 3 giải thích việc kinh doanh theo phương thức đa cấp như sau: “Kinh doanh theo phương thức đa cấp là hoạt động kinh doanh sử dụng mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh, trong đó, người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng và lợi ích kinh tế khác từ kết quả kinh doanh của mình và của những người khác trong mạng lưới”.

Như vậy, kinh doanh theo phương thức đa cấp là một phương thức kinh do
anh được pháp luật thừa nhận, không thể coi là lửa đảo, vậy vì sao nhiều người lại nghĩ nó là một phương thức lừa đảo? Pháp luật quy định thế nào về phương thức kinh doanh này?

Khoản 1 điều 4 nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định về đối tượng kinh doanh theo phương thức đa cấp là: “Hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp chỉ được thực hiện đối với hàng hóa. Mọi hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp với đối tượng không phải là hàng hóa đều bị cấm trừ trường hợp pháp luật có quy định khác".


Khoản 2 điều 4 nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định những hàng hoá không được kinh doanh theo phương thức đa cấp, bao gồm: “Hàng hóa là thuốc; trang thiết bị y tế; các loại thuốc thú y (bao gồm cả thuc thú y thủy sản); thuc bảo vệ thực vật; hóa chất, chế phm diệt côn trùng, diệt khuẩn hạn chế sử dụng và cấm sử dụng trong lĩnh vực gia dng và y tế và các loại hóa chất nguy hiểm; Sản phẩm nội dung thông tin số”.

Khoản 1 điều 5 Nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định những hành vi bị cấm trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp là đối với doanh nghiệp bao gồm: “Yêu cầu người khác phải đặt cọc hoặc nộp một khoản tiền nhất định để được ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp; Yêu cầu người khác phải mua một số lượng hàng hóa nhất định để được ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp; Cho người tham gia bán hàng đa cấp nhận tiền hoặc lợi ích kinh tế khác từ việc giới thiệu người khác tham gia vào hoạt động bán hàng đa cấp mà không phải từ việc mua, bán hàng hóa của người được giới thiệu đó; Từ chi chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay lợi ích kinh tế khác mà người tham gia bán hàng đa cấp có quyền hưởng; Cung cấp thông tin gian dối về kế hoạch trả thưởng, về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp; Cung cấp thông tin gian dối, gây nhầm lẫn về tính năng, công dụng của hàng hóa hoặc hoạt động của doanh nghiệp thông qua báo cáo viên, đào tạo viên tại hội nghị, hội thảo, đào tạo hoặc thông qua tài liệu của doanh nghiệp; Dutrì nhiều hơn một hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, vị trí kinh doanh đa cấp, mã số kinh doanh đa cấp hoặc các hình thức khác tương đương đối với cùng một người tham gia bán hàng đa cấp; Thực hiện khuyến mại sử dụng mạng lưới gồm nhiều cấp, nhiều nhánh mà trong đó người tham gia chương trình khuyến mại có nhiều hơn một vị trí, mã số hoặc các hình thức tương đương khác; Tổ chức các hoạt động trung gian thương mại theo quy định của pháp luật thương mại nhằm phục vụ cho việc duy trì, mở rộng và phát triển mạng lưới bán hàng đa cấp; Tiếp nhận hoặc chấp nhận đơn hoặc bất kỳ hình thức văn bản nào khác của người tham gia bán hàng đa cấp, trong đó, người tham gia bán hàng đa cấp tuyên bố từ bỏ một phần hoặc toàn bộ các quyn của mình theo quy định của Nghị định này hoặc cho phép doanh nghiệp không phải thực hiện nghĩa vụ đối với người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của Nghị định này; Kinh doanh theo phương thức đa cấp đối với đối tượng không được phép theo quy định tại Điều 4 Nghị định này; Không sử dụng hệ thống quản lý người tham gia bán hàng đa cấp đã đăng ký với cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp để quản lý người tham gia bán hàng đa cấp; Mua bán hoặc chuyển giao mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp khác, trừ trường hợp mua lại, hp nht hoặc sáp nhập doanh nghiệp.

Khoản 2 điều 5 Nghị định 40/2018/NĐ-CP quy định những hành vi bị cấm trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp là đối với cá nhân bao gồm: Cung cấp thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn về lợi ích của việc tham gia bán hàng đa cấp, tính năng, công dụng của hàng hóa, hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp; Tổ chức hội thảo, hội nghị, đào tạo về kinh doanh theo phương thức đa cấp khi chưa được doanh nghiệp bán hàng đa cấp ủy quyền bằng văn bản; Lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc người tham gia bán hàng đa cấp của doanh nghiệp khác tham gia vào mạng lưới của doanh nghiệp mà mình đang tham gia; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, địa vị xã hội, nghề nghiệp để khuyến khích, yêu cầu, lôi kéo, dụ dỗ người khác tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp hoặc mua hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp; Thực hiện hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương nơi doanh nghiệp chưa được cấp xác nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương; Và hành vi quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;”

Do phương thức bán hàng đa cấp ngày càng phổ biến, rất nhiều cá nhân, tổ chức lấy vỏ bọc là công ty đa cấp để vi phạm pháp luật, thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm, do đó nhiều người hiểu lầm và mặc định đa cấp là một dạng lừa đảo. Việc thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm là hành vi bán hàng đa cấp bất chính và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật

Tóm lại, xét về bản chất, bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh, không phải là lừa đảo. Tuy nhiên, trên thực tế, cá nhân và doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực này rất dễ có những hành vi sai phạm, điều này khiến mô hình kinh doanh đa cấp trở nên xấu xa trong mắt nhiều người. Hiện nay, pháp luật quản lý rất chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh này, nếu có bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ với Công ty luật để được tư vấn hoặc hỗ trợ chi tiết.

0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Những đối tượng không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp

 


Tổ chức và thành lập Doanh nghiệp là quyền tự do của mỗi cá nhân, tổ chức, nhưng có phải mọi có nhân, tổ chức đều có thể sử dụng quyền này hay không? Nếu không, những chủ thể nào sẽ bị hạn chế?

Khoản 2 điều 17 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về những tổ chức, cá nhân không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam, bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước; Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật này, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân; Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng. Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh; Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự”.

Sở dĩ quy định này nhằm mang lại công bằng và hạn chế tối đa tiêu cực trong kinh doanh. Cán bộ, công chức, viên chức là người làm việc cho hà nước, một số người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan Nhà nước và là người nắm giữ những chức trách, nhiệm vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước, họ được hưởng lương theo chế độ chính sách riêng của Nhà nước do vậy phải có trách nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình; ngoài ra pháp luật quy định hạn chế họ tham gia vào các hoạt động thành lập và quản lý doanh nghiệp để ngăn ngừa tình trạng tham nhũng có thể xảy ra, tình trạng này có thể do sự không minh bạch trong các hoạt động kinh doanh đan xen với việc thực hiện nhiệm vụ của mình trong cơ quan nhà nước, sự xao nhãng nhiệm vụ do tư lợi cá nhân, thậm chí có thể dẫn đến sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Tóm lại, tự do kinh doanh là quyền của mỗi người, tuy nhiên không phải ai cũng có quyền đó, pháp luật hạn chế một số người tham gia vào việc thành lập và quản lý doanh nghiệp.

Trên đây là bài tư vấn của chúng tôi về những đối tượng không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ với Công để  ty luật để được tư vấn hoặc hỗ trợ chi tiết.


0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Phải làm gì khi bị xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh?

  


Pháp luật bảo vệ quyền về hình ảnh như thế nào? Cá nhân cần làm gì khi bị xâm phạm quyền hình ảnh? Các hành vi xâm phạm quyền hình ảnh sẽ bị xử lý như thế nào?

Mỗi cá nhân có quyền đối với hình ảnh của chính mình, quyền hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân của mỗi người và được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Căn cứ theo Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 quy định việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý và việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Bên cạnh đó tại Khoản 2 Bộ luật này quy định về việc sử dụng hình ảnh trong một số trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ bao gồm: Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.

Đối với việc sử dụng hình ảnh vi phạm quy định tại khoản 1, 2 Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 nêu trên, người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.

 

Theo Điểm b Khoản 3 Điều 51 Nghị định 158/2013/NĐ-CP  quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực, hành vi sử dụng hình ảnh cá nhân trong quảng cáo mà không có sự đồng ý của người đó có thể bị xử phạt với mức từ 20.000.000 – 30.000.000 đồng. 

Trường hợp nghiêm trọng hơn, khi bên sử dụng hình ảnh cá nhân chưa được sự đồng ý mà đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, nếu thuộc điểm b Khoản 1 Điều 288 Bộ luật Hình sự 2015 có thể còn đối mặt với việc bị xử lý hình sự như sau: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Trên đây là bài tư vấn của chúng tôi về những vấn đề cần biết khi bị xâm phạm quyền hình ảnh của cá nhân. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ với Công ty luật để được tư vấn hoặc hỗ trợ chi tiết khi bị xâm phạm quyền hình ảnh của cá nhân.

0 nhận xét
 
© 2012 |Thành Lập Công Ty |Designed by Plantillas Blogger and Aplicaciones Android