Thành Lập Hộ Kinh Doanh Cá Thể

Thủ tục đăng kí hộ kinh doanh cá thể như thế nào?

Đăng Kí Khai Sinh Có Yếu Tố Nước Ngoài

Thủ tục đăng kí khai sinh có yếu tố nước ngoài như thế nào?

Dịch Vụ Tư Vấn Giải Quyết Tranh Chấp

Thủ tục giải quyết tranh chấp như thế nào?

Hiển thị các bài đăng có nhãn Giải quyết tranh chấp. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Giải quyết tranh chấp. Hiển thị tất cả bài đăng
Nhãn: , , ,

Nghĩa vụ sử dụng sáng chế và nhãn hiệu

 


Khi một sáng chế hay nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ, đồng nghĩa với việc chủ sở hữu phải có nghĩa vụ sử dụng các chủ thể này bởi lẽ trên thực tế có thể có trường hợp một người đăng ký sáng chế hay nhãn hiệu và được cấp bằng nhưng không sử dụng trên thực tế hoặc cố tình không sử dụng trên thực tế. Việc này sẽ gây ra ảnh hưởng tới các chủ thể có sáng chế và nhãn hiệu sử dụng trên thực tế nhưng không đăng ký được vì đã bị chủ thể khác đăng ký trước đó.

Theo đó, tại Điều 136 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành quy định rất cụ thể về nghĩa vụ sử dụng sáng chế và nhãn hiệu của chủ sở hữu.

Thứ nhất, đối với sáng chế, chủ sở hữu sáng chế có nghĩa vụ sản xuất sản phẩm được bảo hộ hoặc áp dụng quy trình được bảo hộ để đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho Nhân dân hoặc các nhu cầu cấp thiết của xã hội. Khi có các nhu cầu như nêu trên mà chủ sở hữu không thực hiện nghĩa vụ đó thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác mà không cần được phép của chủ sở hữu sáng chế theo quy định pháp luật.

Thứ hai, đối với nhãn hiệu, chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu. Việc sử dụng nhãn hiệu bởi bên nhận chuyển quyền theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu cũng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực. Cụ thể, nếu nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý do chính đáng, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất ba tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực

Nếu quý khách cần thêm bất cứ thông tin hoặc có yêu cầu tư vấn liên quan đến sở hữu trí tuệ có thể liên lạc trực tiếp tới Công ty Luật , bộ phận tư vấn sở hữu trí tuệ để được hỗ trợ.

 

0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Thủ tục nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài

 


 

Bước 1.

Tại cơ quan đại dện: Người yêu cầu đăng kí việc nhận cha, mẹ, con nộp hồ sơ trực tiếp tại cơ quan đại diện

Tại sở tư pháp: Người yêu cầu đăng kí việc nhận cha, mẹ, con nộp hồ sơ trực tiếp tại Sở Tư pháp có thẩm quyền

Bước 2.

Cán bộ tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ, nếu hồ sơ đầy đủ và hợp lệ thì viết phiếu tiếp nhận hồ sơ, ghi rõ ngày trả kết quả. Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, không hợp lệ, cán bộ tiếp nhận hồ sơ hướng dẫn người yêu cầu bổ sung, hoàn thiện. Văn bản hướng dẫn phải ghi đầy đủ rõ ràng các loại giấy tờ cần phải bổ sung, hoàn thiện; cán bộ tiếp nhận hồ sơ ký, ghi rõ họ tên và giao cho người nộp hồ sơ. Thời hạn giải quyết tính từ ngày nhận đủ hồ sơ.

Trường hợp người có yêu cầu nộp không đúng cơ quan có thầm quyền theo quy định, cán bộ tiếp nhận hồ sơ hướng dẫn họ đến cơ quan có thẩm quyền nộp hồ sơ.

Bước 3.

Tại cơ quan đại diện: Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí, cơ quan đại diện có trách nhiệm:

Nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ nhận cha, me, con; trường hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo hoặc có vấn đề cần làm rõ về nhân thân của các bên cha, mẹ, con hoặc giấy tờ trong hồ sơ thì cơ quan đại diện thực hiện xác minh

Nếu xét thấy các bên đương sự đáp ứng đủ điều kiện thì người đứng đầu cơ quan đại diện kí Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con.

Trong trường hợp từ chối việc công nhận thì Cơ quan đại diện gửi văn bản thông báo cho người yêu cầu trong đó nêu rõ lý do từ chối.

Tại sở tư pháp: Ngay sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí, Sở Tư pháp có trách nhiệm nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ, niên yết việc nhận cha, mẹ, con tại trụ sở Sở Tư pháp trong thời hạn 7 ngày làm việc. Đồng thời có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của người được nhận là cha, mẹ, con niêm yết việc nhận cha, mẹ, con.

Bước 4.

Tại cơ quan đại diện: trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày ngườ đứng đầu cơ quan đại diện ký quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con Cơ quan đại diện thực hiện trao quyết định công nhận việc nhận cha,mẹ, con và ghi vào sổ đăng kí việc nhận cha, mẹ, con. Khi trao quyết định công nhận phải có mặt bên nhận và bên được nhận.

Tại Sở tư pháp: Ngay sau khi nhận được công văn của Sở tư pháp UBND cấp xã có trách nhiệm niêm yết việc xin nhận cha, mẹ, con trong vòng 7 ngày tại trụ sở. Nếu có khiếu nại, tố cáo phải gửi văn bản báo cáo ngay lên Sở Tư pháp.

Bước 5.

Tại sở tư pháp trong quá trình giải quyết mà xảy ra tranh chấp thì đình chỉ việc giải quyết hồ sơ, hướng dẫn người có tranh chấp yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục  tố tụng. Nếu có khiếu nại tố cáo về việc nhận cha, mẹ con thì Sở Tư pháp đình chỉ tới khi nào giải quyết xong khiếu nại, tố cáo.

Trường hợp từ chối việc nhận cha, mẹ, con thì phải nêu rõ lý do

Bước 6.

Tại sở tư pháp: trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày kí quyết định công nhận thì phải tiến hành trao quyết định công nhận cha, mẹ, con và ghi vào sổ đăng kí. Việc trao quyết định phải có mặt của bên nhận và bên được nhận.

Trường hợp vì lý do chính đáng mà 1 bên hoặc cả 2 bên không thể đến nhận Quyết định thì phải thay đổi ngày nhận Quyết định. Trường hợp con dưới 9 tuổi thì không bắt buộc phải có mặt khi nhận Quyết định.

0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

 


 Ngày 06 tháng 3 năm 2020, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 13/2020/TT-BTC về việc sửa đổi, bổ sung một số điều cảu Thông tư 13/2015/TT-BTC ngày 30 tháng 01 năm 2015 quy định về kiểm tra, giám sát, tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; kiểm soát hàng giả và hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 1 của Thông tư 13/2020/NTT-BTC, kiểm soát hải quan đối với hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ kiểm soát hải quan hoặc/và các biện pháp nghiệp vụ khác do cơ quan hải quan thực hiện theo quy định của pháp luật để phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa là hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong địa bàn hoạt động hải quan. So với quy định tại Thông tư 13/2015/TT-BTC, phạm vi kiểm soát hải quan đối với hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được mở rộng, không chỉ là biên giới, các khu phi thuế quan.

Bộ Tài chính bổ sung trường hợp từ chối tiếp nhận đơn đề nghị kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức cá nhân, cụ thể: Cơ quan hải quan có thể từ chối nhận đơn nếu hồ sơ nộp bổ sung quá thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày có thông báo nộp bổ sung.

Bên cạnh đó, sửa đổi bổ sung quy định về xử lý hàng hóa có dấu hiệu bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo về hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của cơ quan hải quan, nếu chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc người được ủy quyền hợp pháp không có yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan thì cơ quan hải quan tiếp tục làm thủ tục hải quan. Trường hợp chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc người được ủy quyền hợp pháp không có văn bản đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan nhưng nộp một khoản tiền hoặc chứng từ bảo lãnh theo quy định hoặc có đơn đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan nhưng không nộp một khoản tiền hoặc chứng từ bảo lãnh theo quy định, Chi cục Hải quan nơi làm thủ tục hải quan không thực hiện việc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa, trừ trường hợp phát hiện hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ. Ngược lại, nếu chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan, Chi cục Hải quan nơi làm thủ tục hải quan ra Quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan. Trường hợp có đủ cơ sở xác định hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Chi cục trưởng Chi cục Hải quan xem xét quyết định áp dụng ngay các biện pháp xử lý theo quy định tại Điều 214 và Điều 215 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, đồng thời phối hợp với lực lượng kiểm soát các cấp để thu thập thông tin, điều tra, xác minh về hàng hóa để xử lý theo quy định. Thời hạn tạm dừng làm thủ tục hải quan là 10 ngày làm việc kể từ ngày cơ quan hải quan ra quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan. Ngoài ra, khác với quy định trước đây, người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan có thể gia hạn khi hết thời hạn (nếu có lý do chính đáng) với điều kiện nộp thêm tiền hoặc chứng từ bảo lãnh, thời hạn gia hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn tạm dừng theo quy định tại khoản 8 Điều 1 Thông tư 05/2020/TT-BTC.

Quy định về tạm dừng làm thủ tục hải quan đối khi phát hiện dấu hiệu hàng hóa bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là quy định nhằm bảo hộ những hàng hóa đã được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ. Sở hữu trí tuệ là một loại tài sản vô hình có giá trị nhất đối với mỗi doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp... áp dụng cho sản phẩm được đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, thì các đối tượng sở hữu trí tuệ này sẽ trở thành tài sản của doanh nghiệp, và mang lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi thế về quyền độc quyền, chính sách bảo hộ.

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 20 tháng 4 năm 2020. Tổ chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; Tổ chức, cá nhân là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu hàng thật bị làm giả hoặc đại diện hợp pháp của chủ sở hữu cần theo dõi thực hiện theo đúng quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi của mình.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Các tranh chấp hợp đồng thường gặp và giải pháp tư vấn

  


Trong hoạt động đời sống, tranh chấp hợp đồng xảy ra là ngoài ý muốn của các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng. Ở các nước phát triển, luật sư luôn được khách hàng tư vấn để nhận diện tranh chấp tiềm tàng, và đưa các giải pháp, hỗ trợ tư vấn pháp lý và đồng hành cùng doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp trong các giai đoạn của giao dịch phù hợp với các quy định của pháp luật, và giúp doanh nghiệp tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tranh chấp hợp đồng

Tranh chấp hợp đồng được hiểu là những xung đột, bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng.

Tranh chấp hợp đồng phải có đủ các yếu tố sau:

Có hợp đồng giữa các bên. Hợp đồng được giao kết dưới nhiều hình thức khác nhau như: văn bản và các hình thức tương đương văn bản, hợp đồng miệng hay hợp đồng hành vi. Do vậy, cần phải xác định rõ có quan hệ hợp đồng hình thành hay không.

Có sự vi phạm nghĩa vụ hoặc cho rằng là vi phạm nghĩa vụ của một bên trong quan hệ hợp đồng.

Có sự bất đồng giữa các bên về sự vi phạm hoặc xử lý hậu quả của sự vi phạm đó.

Cần lưu ý, các tranh chấp hợp đồng phát sinh từ sự vi phạm. Tuy nhiên, không phải sự vi phạm hợp đồng nào cũng dẫn đến tranh chấp.

Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng

Các bên chủ thể có quyền cao nhất trong định đoạt việc giải quyết tranh chấp (Trừ những quan hệ hợp đồng ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước)

Tranh chấp hợp đồng luôn gắn với lợi ích của các bên tranh chấp

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng là tự nguyện bình đẳng và thỏa thuận.

Giải quyết tranh chấp hợp đồng .

Tranh chấp hợp đồng có thể được giải quyết bằng các phương thức sau:

Thương lượng là quá trình hay hành vi mà trong đó, hai bên tiến hành trao đổi, thỏa thuận về các mối quan tâm chung và những đặc điểm bất đồng và đi đến một thỏa thuận thống nhất. Thương lượng không có sự xuất hiện của bên thứ ba. Tuy nhiên, nếu người luật sư tham gia với vai trò đại diện thương lượng hoặc tham mưu, tư vấn thì việc thương lượng có hiệu quả cao hơn và dễ đi đến một thỏa thuận có lợi nhất.

Hòa giải cũng là một quá trình các bên chấm dứt xung đột. Hòa giải khác với thương lượng là có sự can thiệp của bên thứ ba. Người trung gian là người đứng ra giàn xếp xung đột giữa các bên.

Tổ chức tài phán.

Tòa án: là cơ quan tư pháp của Nhà nước có chức năng xét xử. Việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án sẽ tiết kiệm chi phí nhưng lại tốn thời gian. Phán quyết của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị.

Trọng tài thương mại: Đây là phương thức giải quyết tranh chấp chỉ có trong lĩnh vực kinh doanh- thương mại. Ưu điểm của phương thức này là nhanh chóng, hiệu quả. Tuy nhiên, chi phí cao hơn và phán quyết có giá trị chung thẩm.

Tranh chấp và giải quyết tranh chấp là vấn đề tự nhiên và tất yếu của bất kỳ nền quốc gia nào. Cần nhận diện, tiên liệu trước những tranh chấp có thể xảy ra. Khi có tranh chấp hợp đồng, luật sư giải quyết tranh chấp sẽ có thể giúp doanh nghiệp đưa ra những giải pháp hợp lý, hiệu quả để giải quyết.

0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO

 


 
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là sự kế thừa về các quy định về giải quyết tranh chấp đã phát huy tác dụng tích cực trong gần 50 năm qua trong lịch sử của GATT 1947. Mục tiêu căn bản của cơ chế giải quyết tranh chấp này là nhằm đạt được giải pháp tích cực cho tranh chấp.

Khi phát sinh tranh chấp tại WTO, đầu tiên các bên sẽ tiến hành tham vấn để đưa ra giải pháp chung thống nhất nhằm giải quyết vụ việc (Consultation – giai đoạn hòa giải), thông thường trong mỗi vụ việc đều có sự tham gia của bên thứ ba (là những thành viên có lợi ích đáng kể và mong muốn tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, nếu họ thấy có quyền lợi đáng kể trong vụ việc và cần được Ban hội thẩm xem xét. Chỉ khi tham vấn không thành công, một Ban hội thẩm bao gồm từ 3 – 5 thành viên sẽ được thành lập và có nhiệm vụ xem xét một vấn đề cụ thể đang tranh chấp trên cơ sở các quy định WTO được quốc gia nguyên đơn viện dẫn.

Sau khi hoàn tất việc thành lập Ban hội thẩm để xem xét vụ khiếu nại, việc đầu tiên Ban hội thẩm cần phải làm là ấn định thời gian biểu cho hoạt động tố tụng của mình (Điều 12.3 DSU). Thủ tục của Ban hội thẩm thường bao gồm các nội dung được nêu tại Điều 12 và Phụ lục 3 của DSU, trong đó có sự linh hoạt nhất định để đảm bảo chất lượng báo cáo mà không làm chậm quá trình tố tụng. Việc ấn định thời gian biểu giúp cho các bên nắm rõ được các nội dung và thời hạn cần phải làm trong mỗi vụ tranh chấp nội bộ công ty, giúp họ chủ động hơn trong việc đưa ra những bằng chứng, căn cứ, lập luận trong các văn bản đệ trình của mình.

Sau khi các cuộc họp điều trần được diễn ra, Ban hội thẩm sẽ đi vào giai đoạn thảo luận nội bộ (nghị án), để xem xét đánh giá các vấn đề pháp lý, thực tế có liên quan phù hợp với quy định của WTO, nghị án phải được giữ bí mật. Các bản báo cáo này được soạn thảo không có sự hiện diện của các bên tranh chấp mà chỉ theo nội dung của những thông tin đã được cung cấp và các ý kiến đã được đưa ra trước đó. Các ý kiến cá nhân của hội thẩm viên được trình bày trong bản báo cáo của ban hội thẩm không được ghi tên người phát biểu ý kiến đó.

Sau khi báo cáo cuối cùng sẽ được gửi tới các bên tranh chấp trong vòng 2 tuần kể từ khi Ban hội thẩm có kết luận ở giai đoạn rà soát giữa kỳ. Thông thường mỗi báo cáo của Ban hội thẩm có nội dung rất lớn, để thuận lợi trong việc nghiên cứu xem xét lại của cơ quan phúc thẩm và trích dẫn án lệ thì trong báo cáo phải thể hiện phần mục lục và các đoạn văn được đánh số riêng biệt theo thứ tự từng phần của báo cáo. Nếu không có kháng cáo, quy trình giải quyết tranh chấp ngay lập tức sẽ chuyển sang giai đoạn thực hiện sau khi DSB thông qua báo cáo của Ban hội thẩm. Còn nếu có kháng cáo thì vụ kiện sẽ được xem xét lại ở cấp Phúc thẩm.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Đà Nẵng- Singapore hợp tác cùng phát triển

 


 Ngày 12/05/2021, đại diện thành phố Đà Nẵng đã có buổi hội thảo trực tuyến với đại diện Thành phố Hồ Chí Minh và Singapore về vấn đề phát triển kinh tế, buổi hội thảo đã có sự tham dự của gần 200 doanh nghiệp, nhà đầu tư từ Singapore.

Trong buổi hội thảo, đại diện thành phố Đà Nẵng đã giới thiệu về môi trường đầu tư, kinh doanh và một số chính sách ưu đãi và cơ hội đầu tư của thành phố Đà Nẵng trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ thông tin, dịch vụ chất lượng cao (y tế, giáo dục, logistics). Hội thảo nhận được các chia sẻ về kinh nghiệm khi đầu tư vào Đà Nẵng cũng như sự hỗ trợ của chính quyền thành phố từ bà Holly Bostock, Giám đốc Ngoại vụ cấp cao Công ty Heineken Việt Nam, một trong những nhà đầu tư Singapore lớn nhất tại Đà Nẵng và về các giải pháp tài chính khi đầu tư vào Việt Nam.

Ông Douglas Foo, Phó Chủ tịch Liên đoàn Doanh nghiệp Singapore, Chủ tịch Liên đoàn Sản xuất Singapore đánh giá cao về tiềm năng môi trường đầu tư kinh doanh của thành phố và có đề nghị thành phố Đà Nẵng thành lập Trung tâm thông tin Đà Nẵng (Da Nang Desk) đặt tại Trung tâm Kết nối Việt Nam tại Liên đoàn Sản xuất Singapore (SMF) để kết nối Đà Nẵng với các doanh nghiệp Singapore.

Qua Hội thảo, Đà Nẵng quan tâm mời gọi các nhà đầu tư, các doanh nghiệp Singapore có năng lực tài chính, công nghệ đến tìm hiểu về môi trường đầu tư kinh doanh và cơ hội hợp tác tại thành phố. Phó Chủ tịch thường trực UBND thành phố Đà Nẵng Hồ Kỳ Minh đánh giá cao đề xuất việc thiết lập Trung tâm thông tin Đà Nẵng tại Singapore và giao Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư đề xuất mô hình, làm cầu nối hỗ trợ quảng bá môi trường và cơ hội đầu tư kinh doanh của Đà Nẵng đến các doanh nghiệp Singapore nói riêng và quốc tế nói chung; qua đó thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ hợp tác đầu tư giữa Đà Nẵng và Singapore trong thời gian đến.

Singapore là một trong những đối tác thương mại và đầu tư quan trọng nhất của Việt Nam. Năm 2020, mặc dù bị ảnh hưởng bởi Covid-19, Singapore đã đầu tư vào Việt Nam 248 dự án với tổng số vốn gần 9 tỷ USD, là quốc gia dẫn đầu đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Lũy kế đến cuối năm 2020, Singapore là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn thứ 3 tại Việt Nam sau Hàn Quốc và Nhật Bản với tổng số 2,629 dự án và tổng vốn đăng ký đầu tư hơn 56,5 tỷ USD. Về thương mại hai chiều, năm 2020, tổng kim ngạch hai chiều giữa Việt Nam và Singapore đạt trên 6,7 tỷ USD, trong đó trị giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 3 tỷ USD và nhập khẩu đạt 3,7 tỷ USD.

Singapore là một trong những thị trường trọng điểm thu hút đầu tư của Đà Nẵng, hiện thành phố có 28 dự án FDI Singapore với tổng vốn đăng ký hơn 838,4 triệu USD, xếp thứ 2 trong danh sách hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm khoảng 22% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Qua buổi hội thảo, Đà Nẵng hi vọng sẽ có nhiều nhà đầu tư từ Singapore thực hiện đầu tư tại Đà Nẵng để có thể giúp thành phố đạt được mục tiêu trở thành trung tâm tài chính lớn nhất Việt Nam, và nhà đầu tư có thể hưởng các ưu đãi tốt nhất từ thành phố để có thể đạt được hiệu quả đầu tư cao nhất cho mình.

0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Quy định mới về lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng

 


Nghị định số 38/2020/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được Chính phủ ban hành ngày 03 tháng 4 năm 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 20 tháng 5 năm 2020.

Nghị định này quy định về khu vực và công việc người lao động không được đến làm việc ở nước ngoài; giấy phép, điều kiện và thủ tục cấp, đổi giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; tiền ký quỹ của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; tiền ký quỹ, quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh nghiệp thực hiện hợp đồng nhận lao động thực tập.

Có tới bảy công việc người lao động không được đến làm việc ở nước ngoài. Bao gồm: công việc massage làm việc tại các nhà hàng, khách sạn hoặc các trung tâm giải trí; công việc phải tiếp xúc thường xuyên với chất nổ, chất độc hại trong luyện quặng kim loại màu (đồng, chì, thủy ngân, bạc, kẽm), mangan, điôxit thủy ngân; công việc tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở, khai thác quặng phóng xạ các loại; công việc sản xuất, bao gói phải tiếp xúc thường xuyên với các hóa chất axit nitơric, natri sunfat, các loại thuốc trừ sâu, diệt cỏ, diệt chuột, sát trùng, chống mối mọt có độc tính mạnh; công việc săn bắt thú dữ, cá sấu, cá mập; công việc thường xuyên ở nơi thiếu không khí, áp suất lớn (dưới lòng đất, lòng đại dương); công việc liệm, mai táng tử thi, thiêu xác chết, bốc mồ mả. Bên cạnh đó, không được đưa người lao động đến khu vực đang có chiến sự hoặc đang có nguy cơ xảy ra chiến sự, khu vực đang bị nhiễm xạ, khu vực bị nhiễm độc, khu vực đang có dịch bệnh đặc biệt nguy hiểm.

Đối với các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, việc thành lập công ty, và tuân thủ để hoạt động, cần đáp ứng các điều kiện: Vốn pháp định không thấp hơn 5.000.000.000 đồng (năm tỷ Việt Nam đồng); có chủ sở hữu, tất cả các thành viên, cổ đông là nhà đầu tư trong nước theo quy định của Luật Đầu tư; có đề án hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; có Bộ máy chuyên trách, cơ sở vật chất để tổ chức bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài và hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; thực hiện ký quỹ 1.000.000.000 đồng (một tỷ Việt Nam đồng) tại ngân hàng thương mại được phép hoạt động tại Việt Nam.

Doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề thực hiện việc ký quỹ vào tài khoản tại ngân hàng thương mại. Mức tiền ký quỹ của doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề bằng 10% tiền vé máy bay một lượt hạng phổ thông tại thời điểm doanh nghiệp ký quỹ từ nước mà người lao động đến làm việc về Việt Nam tính theo số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong Hợp đồng nhận lao động thực tập đã đăng ký.

Ngoài ra, Nghị định này còn quy định điều kiện hoạt động đưa người lao động đi làm việc tại lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc), đi thực tập kỹ năng tại Nhật Bản và đi làm giúp việc gia đình tại nước tiếp nhận thuộc khu vực Trung Đông.

Trên đây là những nội dung mới quan trọng về lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Các cá nhân, tổ chức có liên quan cần lưu ý thực hiện. Nếu có bất cứ thắc mắc nào về tư vấn lao động làm việc ở nước ngoài, vui lòng liên hệ công ty luật để được giải đáp thắc mắc.

0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Đà Nẵng- Tangier (Maroc) hợp tác trong lĩnh vực kinh tế

  


Ngày 14/4/2021, đại diện thành phố Đà Nẵng đã có buổi làm việc trực tuyến với đại diện thành phố Tangier (Maroc) nhân kỷ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (1961-2021).

Tại buổi làm việc, đại diện thành phố Đà Nẵng đã chia sẻ những đặc điểm, tiềm năng và nét tương đồng trong đồng trong định hướng phát triển của thành phố Tangier và thành phố Đà Nẵng, qua buổi làm việc này, hai thành phố sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác trong một số lĩnh vực như du lịch, giao thông vận tải, thương mại. Ngoài ra, Đà Nẵng đang thực hiện mục tiêu vừa ứng phó với dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế- xã hội, quảng bá hình ảnh thành phố như một điểm đến an toàn cho nhà đầu tư và khách du lịch.

Cụ thể, trong lĩnh vực du lịch, khuyến khích hợp tác giữa các doanh nghiệp du lịch, lữ hành. Đồng thời, phối hợp tổ chức các đoàn khảo sát sản phẩm du lịch, kết nối du lịch hai thành phố; xúc tiến, quảng bá giới thiệu hình ảnh Đà Nẵng đến người dân Maroc.

Về lĩnh vực giao thông vận tải, phía Đà Nẵng mong muốn phía Tangier sẽ hỗ trợ Đà Nẵng trong kêu gọi doanh nghiệp, nhà đầu tư của Tangier đầu tư hợp phần PPP (đối tác công tư) dự án cảng Liên Chiểu để hợp tác, hoạt động. Bên cạnh đó, đầu tư các trung tâm logistics theo quy hoạch đã được duyệt và hỗ trợ đầu tư bến du thuyền, cảng thủy nội địa.

Trong lĩnh vực thương mại, phía thành phố Đà Nẵng đề xuất hai bên trao đổi, cung cấp thông tin về các hoạt động hội chợ triển lãm thương mại và các sự kiện uy tín của thành phố; thông tin về doanh nghiệp xuất nhập khẩu; cơ chế chính sách thương mại, đối với hàng hóa nhập khẩu để hỗ trợ kết nối giao thương, xúc tiến xuất – nhập khẩu hàng hóa.

Bên cạnh đó, hỗ trợ doanh nghiệp hai bên nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp cận thị trường hàng hóa của nhau; kết nối doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng nguyên liệu để đẩy mạnh xuất khẩu những sản phẩm có thể mạnh, mang tính bổ sung cho nhau. Phối hợp tổ chức hoặc hỗ trợ doanh nghiệp khảo sát thị trường, tạo điều kiện để các bên bố trí gian hàng hoặc gửi hàng hóa giới thiêu tại Trung tâm giới thiệu sản phẩm của địa phương mình.

Trước những đề xuất của Đà Nẵng, đại diện thành phố Tangier chia sẻ, Tangier là địa phương có cơ sở hạ tầng về du lịch và giao thông vận tải. Phía Tangier mong muốn 2 bên sẽ cụ thể hóa các ý tưởng hợp tác để kết nối du lịch. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi, tối ưu hóa thế mạnh để phát triển các lĩnh vực mà cả 2 bên đều đang quan tâm. Bên cạnh đó, đại diện thành phố Tangier mong rằng ngoài các lĩnh vực nói trên, 2 thành phố sẽ có thể hợp tác trong lĩnh vực công nghệ, môi trường, phát triển bền vững.

Qua buổi làm việc, hai bên cũng mong muốn trong thời gian tới, với những nỗ lực hợp tác, phát triển kinh tế, các nhà đầu tư từ Tangier sẽ thực hiện đầu tư tại Đà Nẵng, xin giấy phép đầu tư, thành lập công ty, nhằm tận dụng tối đa những ưu đãi đầu tư mà Đà Nẵng đặt ra, nhằm thu lại lợi ích kinh tế cho mình.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , , ,

Quy định mới về thử việc

 


 Thử việc là thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm thử công việc trong một khoảng thời gian nhất định tuân thủ theo quy định của pháp luật. Trước khi giao kết hợp đồng lao động, người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận về giai đoạn thử việc để quyết định sự hợp tác, gắn bó lâu dài giữa người lao động với người sử dụng lao động. Thử việc cần tuân thủ quy định của Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Bộ luật Lao động 2019 có hiệu lực từ ngày 01/01/2020 ban hành một số quy định mới liên quan đến thử việc.

Bộ luật Lao động năm 2012 không đề cập đến việc thỏa thuận nội dung thử việc trong hợp đồng lao động. Theo đó, người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ của hai bên trong thời gian thử việc. Nếu có thoả thuận về việc làm thử thì các bên có thể giao kết hợp đồng thử việc. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động. Từ những quy định trong Bộ luật Lao động 2012 dẫn đến cách hiểu rằng, người lao động và người sử dụng nên lập hợp đồng thử việc riêng. Thử việc hoàn tất và người lao động đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của người sử dụng lao động, hai bên mới giao kết hợp đồng lao động. Theo quy định mới nhất trong Bộ luật Lao động năm 2019, người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc. Quy định này đã làm rõ hình thức giao kết hợp đồng thử việc, theo đó thử việc có thể giao kết một hợp đồng riêng rẽ hoặc trở thành một trong những điều khoản của hợp đồng lao động. Đối với trường hợp nội dung thử việc được ghi trong hợp đồng lao động thì khi kết thúc thời gian làm thử việc, nếu người lao động thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết. Nếu các bên thỏa thuận bằng hợp đồng thử việc thì giao kết hợp đồng lao động mới.

Liên quan đến các trường hợp giao kết hợp đồng thử việc, người lao động giao kết hợp đồng lao động có thời hạn dưới 01 tháng không áp dụng thử việc. Ngoài ra, quy định người lao động làm việc theo hợp đồng lao động mùa vụ thì không phải thử việc đã được bãi bỏ do hiện tại không còn hình thức hợp đồng lao động mùa vụ trong luật.

Bên cạnh đó, thời hạn thử việc trước đây được giới hạn không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên. Hiện tại, thời hạn thử việc được cho phép đối với những người quản lý doanh nghiệp có thể lên tới 180 ngày. Luật Lao động đã phân định giới hạn thời gian thử việc dựa vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc. Trong đó, người quản lý doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ công ty (áp dụng đối với các doanh nghiệp không có vốn nhà nước).

Một sửa đổi khác đối đối với việc hủy bỏ thỏa thuận thử việc, Bộ luật Lao động 2019 đã bãi bỏ giới hạn quyền hủy bỏ này. Theo đó, trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường. Ngược lại, người lao động và người sử dụng lao động chỉ có thể hủy bỏ thỏa thuận lao động nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận theo Bộ luật Lao động 2012.

Quá trình thử việc là bước đệm cho việc tiến tới ký kết hợp đồng lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động nhằm đảm bảo sự phù hợp về năng lực và kinh nghiệm của người lao động đáp ứng yêu cầu của người sử dụng la động. Các doanh nghiệp với tư cách là người sử dụng lao động cần nắm rõ các nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động cũng như hợp đồng thử việc để tránh xảy ra tranh chấp lao động hoặc nếu có tranh chấp thì nên tham khảo ý kiến luật sư chuyên về tranh chấp sớm để hoả giải hoặc có phương án tranh chấp phù hợp, hiệu quả.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN

 


 Do hợp tác kinh tế được mở rộng nên việc có một cơ chế hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên đã trở nên một nhu cầu thiết yếu. Chính vì vậy, từ năm 1996, ASEAN đã bắt đầu soạn thảo Nghị định thư về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp, và Nghị định thư này đã được các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN ký ngày 20/11/1996 tại Manila (Philippines).x

Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN được xây dựng trên tinh thần thương lượng, hoà giải. Vào bất kỳ thời điểm nào, các nước thành viên là các bên tranh chấp cũng được quyền lựa chọn các hình thức dàn xếp, hoà giải hoặc trung gian hoà giải. Các hình thức này có thể bắt đầu vào bất kỳ lúc nào và cũng có thể chấm dứt vào bất kỳ lúc nào. Chỉ khi thủ tục dàn xếp, hoà giải hoặc trung gian hoà giải đã chấm dứt thì bên khiếu nại mới được tiến hành đưa vấn đề lên Hội nghị quan chức kinh tế cấp cao của các quốc gia ASEAN (SEOM). Trong khi tranh chấp đang diễn ra, nếu các bên tranh chấp đồng ý thì các thủ tục trung gian hoà giải vẫn được tiếp tục áp dụng.

Nếu tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng sáu mươi (60) ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, thì vấn đề này sẽ được trình lên SEOM. SEOM sẽ thành lập Ban hội thẩm hoặc nếu có thể, chuyển vấn đề cho ban chuyên trách phụ trách các quy tắc và thủ tục đặc biệt hoặc bổ sung để xem xét. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể, nếu thấy cần thiết thì SEOM có thể quyết định xử lý tranh chấp một cách hữu nghị mà không phải chỉ định Ban hội thẩm.

SEOM sẽ xem xét báo cáo của Ban hội thẩm trong quá trình thảo luận của mình và đưa ra phán xử về tranh chấp trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ ngày Ban hội thẩm trình báo cáo. Trong các trường hợp ngoại lệ, SEOM có thể có thêm mười (10) ngày nữa trong việc đưa ra phán xử về việc giải quyết tranh chấp. Các đại diện SEOM của các nước thành viên là các bên tranh chấp có thể có mặt trong quá trình thảo luận nhưng không được tham gia vào việc đưa ra phán xử của SEOM. SEOM sẽ ra phán xử trên cơ sở đa số.

Các nước thành viên là các bên tranh chấp có thể kháng nghị lại phán xử của SEOM với Các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (“AEM”) trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ ngày SEOM ra phán xử. AEM phải đưa ra quyết định trong vòng ba mươi (30) ngày kể từ ngày có kháng nghị. Trong các trường hợp ngoại lệ, AEM có thể có thêm mười (10) ngày nữa để đưa ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp.

0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Trao đổi về vấn đề áp dụng pháp luật trong quan hệ hợp đồng thương mại

  

Ở Việt Nam, quan hệ hợp đồng thương mại nói chung được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm khác nhau đó tạo nên cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động thương mại nói chung được thực hiện trên cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên tham gia mà nhà nước cho phép.

Tuy nhiên, do các văn bản này điều chỉnh về cùng một vấn đề của hoạt động thương mại, dẫn đến sự quy định khác nhau về cùng một vấn đề. Do đó, xác định luật áp dụng trong hợp đồngthương mại là một trong những vấn đề các bên tham gia giao kết phải chú ý, tránh xảy ra tranh chấp. Hai văn bản quy phạm pháp luật thường được áp dụng trong quan hệ thương mại gồm Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại. Ngoài hai văn bản quy phạm pháp luật này vẫn còn các ngành luật khác như Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh Bất động sản,… làm căn cứ điều chỉnh hợp đồng thương mại tùy từng trường hợp cụ thể.

Khi nào áp dụng Luật Thương mại?

 Thứ nhất, về các trường hợp đương nhiên áp dụng Luật Thương mại

Căn cứ Điều 1, Điều 2 Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam giữa các bên là thương nhân (bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh) thì Luật Thương mại đương nhiên được áp dụng.

Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định này là hoạt động thương mại không có yếu tố nước ngoài theo quy định tại Điều 663 Bộ luật Dân sự, là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Cần chú ý rằng, theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mai 2005, những thứ được coi là hàng hóa bao gồm tất cả các loại động sản (kể cả động sản hình thành trong tương lai) và những vật gắn liền với đất đai, điều đó có nghĩa rằng quyền sử dụng đất không phải là hàng hóa và không chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại.

Ngoài tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và các cá nhân hoạt động có đăng ký kinh doanh, thì các cá nhân hoạt động không có đăng ký kinh doanh như buôn bán rong, buôn bán vặt, đánh giày, bán vé số, chữa khóa,… phải tuân theo quy định của Nghị định 39/2007/NĐ-CP, pháp luật về th­ương mại áp dụng đối với thương nhân và pháp luật có liên quan.

Thứ hai, các trường hợp thỏa thuận áp dụng Luật Thương mại

Căn cứ Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật này. “Bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi” được hiểu rằng không phải thương nhân. Quyền lựa chọn Luật Thương mại có được áp dụng hay không trong trường hợp này thuộc về bên không phải thương nhân.

Luật Thương mại là luật riêng có của Việt Nam, do đó với những quan hệ có yếu tố nước ngoài, Luật Thương mại không được quyền đương nhiên áp dụng. Các bên trong giao dịch thươngmại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Tùy theo thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên mà Luật Thương mại có thể được áp dụng.

 Khi nào ap dụng Bộ luật Dân sự?

 Trước hết, mối quan hệ giữa Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại là mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng. Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Dân sự thì quan hệ dân sự bao gồm cả quan hệ kinh doanh, thương mại. Đồng thời, theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật Thương mại thì “hoạt động thương mại không được quy định trong Luật Thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự”. Các quy định này xác lập mối quan hệ luật chung, luật riêng giữa Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại. Do đó, trong những trường hơp Luật Thương mại chưa có quy định điều chỉnh, thì Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng.

Viện dẫn nguyên tắc này, trong trường hợp “Bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi” trong trường hợp được đề cập bên trên lựa chọn không áp dụng Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự sẽ được áp dụng.

Tùy từng trường hợp cụ thể mà các Bộ luật Dân sự hoặc Luật Thương mại có thể được áp dụng. Nhằm tránh xảy ra tranh chấp từ những cách hiểu khác nhau, các bên trong hợp đồng cần phải tìm hiểu rõ quy định của pháp luật để có sự viện dẫn phù hợp.



0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Ý kiến của người thứ ba về việc cấp văn bằng bảo hộ

  


Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ hiện hành, bất kỳ bên thứ ba nào cũng có quyền có ý kiến với Cục sở hữu trí tuệ về quyền sở hữu công nghiệp, về việc cấp bằng hoặc không cấp bằng bảo hộ đối với đơn đó. Vậy ở thời điểm nào thì người thứ ba có quyền đưa ra ý kiến và Cục sẽ xử lý ý kiến đó như thế nào?

Thứ nhất, người thứ ba có quyền đưa ra ý kiến kể từ thời điểm đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp đến trước ngày ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ. Theo đó, ý kiến phải được lập thành văn bản và kèm theo các tài liệu hoặc trích dẫn nguồn thông tin để chứng minh. Cần lưu ý rằng, văn bản nêu ý kiến của người thứ ba cũng được coi là một nguồn thông tin cho quá trình xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp.

Thứ hai, sau khi ý kiến của người thứ ba đã được nộp vào Cục, các trường hợp sau sẽ xảy ra:

·         Trong trường hợp xét thấy ý kiến của người thứ ba là có cơ sở, Cục Sở hữu trí tuệ thông báo về ý kiến đó cho người nộp đơn và ấn định thời hạn để người nộp đơn trả lời bằng văn bản. Sau khi nhận được ý kiến phản hồi của người nộp đơn, nếu xét thấy cần thiết, Cục Sở hữu trí tuệ thông báo về ý kiến phản hồi cho người thứ ba và ấn định thời hạn tối đa là 01 tháng kể từ ngày ra thông báo để người thứ ba trả lời bằng văn bản về ý kiến phản hồi đó. Sau thời hạn nói trên, Cục Sở hữu trí tuệ xử lý ý kiến của người nộp đơn và người thứ ba trên cơ sở chứng cứ, lập luận do các bên cung cấp và tài liệu có trong đơn. Người thứ ba cũng được thông báo về kết quả thẩm định đơn tương ứng.

·         Trong trường hợp xét thấy ý kiến của người thứ ba là không có cơ sở, Cục Sở hữu trí tuệ không phải thông báo về ý kiến đó cho người nộp đơn, nhưng phải thông báo cho người thứ ba về việc từ chối xem xét ý kiến, có nêu rõ lý do.

·         Trong trường hợp ý kiến của người thứ ba liên quan đến quyền đăng ký, nếu xét thấy không thể xác định ý kiến đó là có cơ sở hay không, Cục Sở hữu trí tuệ thông báo để người thứ ba nộp đơn khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày Cục Sở hữu trí tuệ ra thông báo mà người thứ ba không gửi cho Cục Sở hữu trí tuệ bản sao thông báo thụ lý vụ án của Tòa án thì Cục Sở hữu trí tuệ coi như người thứ ba rút bỏ ý kiến và tiếp tục xử lý đơn như không có ý kiến của người thứ ba. Trường hợp Cục Sở hữu trí tuệ nhận được bản sao thông báo thụ lý vụ án của Tòa án của người thứ ba trong thời hạn nêu trên, Cục Sở hữu trí tuệ tạm dừng việc xử lý đơn để chờ kết quả giải quyết tranh chấp của Tòa án. Sau khi nhận được kết quả giải quyết của Tòa án, việc xử lý đơn sẽ được tiến hành phù hợp với kết quả đó.

Ngoài ra, trong quá trình xử lý nêu trên, Cục sở hữu trí tuệ có thể tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người nộp đơn và người thứ ba để làm rõ hơn vấn đề có ý kiến phản đối nếu xét thấy cần thiết hoặc có yêu cầu của cả hai bên.

Nếu quý khách cần thêm bất cứ thông tin hoặc có yêu cầu tư vấn liên quan đến sở hữu trí tuệ có thể liên lạc trực tiếp tới Công ty Luật để được hỗ trợ.



0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thuộc về cơ quan nào?

  


Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thuộc về cơ quan nào ? Khi có tranh chấp về đất đai thì kiện ở đâu?

Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Tranh chấp đất đai bao gồm tất cả những tranh chấp phát sinh trong quan hệ đất đai bao gồm tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất…Việc giải quyết tranh chấp đất đai tuân theo các quy định của Luật đất đai 2013 về thẩm quyền, trình tự, thủ tục.

Tranh chấp đất đai trước hết phải thông qua thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Trường hợp hòa giải không thành thì được giải quyết thông qua Tòa án hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

Đối với cơ quan giải quyết tranh chấp đất đai là Tòa án thì theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai 2013, khi đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật đất đai và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất sẽ do Tòa án nhân dân nơi có đất giải quyết. 

Đối với cơ quan giải quyết tranh chấp là Ủy ban nhân dân sẽ được áp dụng trong trường hợp đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013. Cụ thể với những tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Đối với trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết. Nếu các bên không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính. Quyết định giải quyết tranh chấp của cơ quan này có hiệu lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.

Trên đây là bài tư vấn của chúng tôi về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định mới nhất. Nếu bạn còn bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ với Công ty luật để được tư vấn hoặc thực hiện dịch vụ soạn Đơn khiếu nại về tranh chấp quyền sử dụng đất.



0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư theo Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVIPA

 


FTAs thế hệ mới không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ mà còn mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với cả đầu tư. Phần lớn các FTAs này cũng bao gồm các nguyên tắc tự do hoá đầu tư và bảo hộ nhà đầu tư thông qua việc quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (ISDS). Hai Hiệp định đáng chú ý thời gian gần đây là Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có chương 9 về Đầu tư có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 tại Việt Nam và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) (được tách ra từ Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Liên minh châu Âu – EVFTA) đang đợi tất cả các quốc gia thành viên phê chuẩn trước khi có hiệu lực.

Đầu tiên, về nguyên tắc minh bạch trong giải quyết tranh chấp, CPTPP và EVIPA đều có các điều khoản hoàn thiện tính minh bạch của quá trình tố tụng. Theo đó tất cả các tài liệu (được đệ trình bởi các bên, quyết định của hội đồng trọng tài) sẽ được công khai, trừ các tài liệu bảo mật. Các phiên điều trần sẽ được thực hiện công khai cho các bên có liên quan có thể tham dự. EVIPA đã áp dụng Quy tắc minh bạch UNCITRAL trong khi CPTPP không áp dụng Quy tắc này mà chỉ áp dụng một số quy định tại Điều 9.24 Hiệp định (Điều 9.24 CPTPP, Điều 3.46 EVIPA).

Thứ hai, EVIPA đã thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực, khác với cơ chế vụ việc trong CPTPP. Theo EVIPA, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm. Hiệp định EVIPA đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam quy định cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực trong một Hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam.

Thứ ba là phán quyết của hội đồng xét xử. Theo EVIPA, phán quyết cuối cùng sẽ được các bên tuân thủ, không kháng cáo, rà soát, bãi bỏ, huỷ bỏ hay bất kỳ biện pháp sửa đổi nào. Việt Nam được gia hạn 5 năm tính từ khi Hiệp định có hiệu lực hoặc thời gian dài hơn do Ủy ban thương mại quyết định. Trong thời gian đó, nếu Việt Nam là bị đơn thì việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài sẽ tuân theo Công ước New York 1958 (Điều 3.57). Hết thời hạn 5 năm, việc thực thi phán quyết theo cơ chế Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước). Biện pháp bảo hộ ngoại giao không được phép áp dụng trừ trường hợp một bên không thực thi phán quyết cuối cùng của trọng tài (Điều 3.58). Trong khi đó, theo Điều 9.29, CPTPP vẫn cho phép khả năng sửa đổi, hủy bỏ phán quyết. CPTPP có nhiều cơ chế thực thi hơn, bao gồm cả Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước), Công ước New York năm 1958 và Công ước liên châu Mỹ (cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước).

Cuối cùng, cả EVIPA và CPTPP đều tăng tính độc lập, vô tư và chất lượng của trọng tài hoặc thành viên của hội đồng khi ban hành bộ quy tắc ứng xử. Trong EVIPA, bộ quy tắc ứng xử này được quy định cụ thể trong Phụ lục 11 trong khi với CPTPP, bộ quy tắc này không được quy định nhưng sẽ được bổ sung hướng dẫn sau đó bởi các bên ký kết trên cơ sở Quy tắc ứng xử về thủ tục giải quyết tranh chấp theo Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) (Khoản 6 Điều 9.22).

0 nhận xét
Nhãn: , , , ,

Các hình thức giải quyết tranh chấp lao động

   




Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động. Khi tranh chấp lao động xảy ra, cơ quan, tổ chức, cá nhân mang thẩm quyền sẽ tiến hành giải quyết trên cơ sở các biện pháp và nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động được quy định tại Chương XIV Bộ luật lao động 2012.

Các biện pháp giải quyết tranh chấp trong lao động gồm: thương lượng, hòa giải cơ sở, giải quyết của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động. Trong đó:

Đối với giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, hoà giải viên lao động, Toà án nhân dân là cá nhân, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Hoà giải viên lao động; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện; Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền và hoà giải viên lao động; Hội đồng trọng tài lao động có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.

Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp mà các bên tranh chấp đối thoại với nhau một cách trực tiếp nhằm đạt được thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp. Trong thực tế, đây chính là phương thức giải quyết được sử dụng rộng rãi nhất. Trong quá trình thương lượng, các bên sẽ bàn bạc, thảo luận các vấn đề liên quan tới vụ tranh chấp, đưa ra những phương án nhằm giải quyết vụ tranh chấp đó. Quyết định được đưa ra dựa trên nền tảng của sự thỏa thuận giữa chính các bên mà không phải là kết quả của một áp lực nào từ bên ngoài.

Khác với thương lượng, hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba nhưng bên thứ ba không đưa ra phán quyết mà chỉ hỗ trợ, hướng dẫn các bên thương lượng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật lao động 2012, tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết, trừ các tranh chấp lao về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động; về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trường hợp hai bên thỏa thuận được, hòa giải viên lao động lập biên bản hòa giải thành. Ngược lại, hai bên không thỏa thuận được, hòa giải viên lao động đưa ra phương án hoà giải để hai bên xem xét và nếu hai bên chấp nhận phương án hoà giải, hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải thành. Trường hợp hai bên không chấp nhận phương án hoà giải hoặc một bên tranh chấp đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, thì hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải không thành.

Phương thức giải quyết tranh chấp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện là phương thức giải quyết được áp dụng khi có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện căn cứ vào pháp luật về lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động đã được đăng ký và các quy chế, thỏa thuận hợp pháp để xem xét, giải quyết tranh chấp lao động.

Hội đồng trọng tài lao động có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Tại phiên họp của Hội đồng trọng tài lao động phải có đại diện của hai bên tranh chấp. Hội đồng trọng tài lao động có trách nhiệm hỗ trợ các bên tự thương lượng, trường hợp hai bên không thương lượng được thì Hội đồng trọng tài lao động đưa ra phương án để hai bên xem xét. Trong trường hợp hai bên tự thỏa thuận được hoặc chấp nhận phương án hòa giải thì Hội đồng trọng tài lao động lập biên bản hoà giải thành đồng thời ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên. Trường hợp hai bên không thỏa thuận được hoặc một bên tranh chấp đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng thì Hội đồng trọng tài lao động lập biên bản hoà giải không thành và sau thời hạn 03 ngày, tập thể lao động có quyền tiến hành các thủ tục để đình công.

Xét xử là phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể về quyền, trong đó Tòa án sẽ ra một bản án hoặc quyết định để giải quyết vụ việc. Giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án nhìn chung là hoạt động giải quyết cuối cùng sau khi tranh chấp đã được giải quyết ở các giai đoạn khác mà không đoạt kết quả. Việc giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án được thực hiện bởi cơ quan tài phán mang quyền lực nhà nước đặc biệt, tiến hành theo những quy trình và thủ tục tố tụng chặt chẽ được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Ưu điểm lớn nhất của phương thức giải quyết tranh chấp này là các phán quyết của toàn án về vụ tranh chấp lao động được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.

Trên đây là một số cách giải quyết tranh chấp lao động. Người lao động cũng như tập thể lao động và người sử dụng lao động cần lưu ý để lựa chọn phương án giải quyết phù hợp và tối ưu nhất khi xảy ra tranh chấp lao động.

0 nhận xét
Nhãn: , , ,

Tư vấn giải quyết tranh chấp nội bộ cổ đông công ty

 


 

Công ty luật ANT cung cấp dịch vụ tư vấn luật và giải quyết tranh chấp nội bộ công ty, tranh chấp cổ đông, thành viên, bao gồm: tranh chấp giữa công ty với các thành viên, cổ đông của công ty, giữa các thành viên, cổ đông của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.

Dịch vụ tư vấn giải quyết tranh chấp nội bộ công ty:

Tiếp nhận và xử lý hồ sơ, thông tin về vụ việc, rà soát hệ thống văn bản pháp luật doanh nghiệp, văn bản nội bộ công ty để đưa ra phương án giải quyết tranh chấp nội bộ;
Thống nhất với Khách hàng về phương án giải quyết tranh chấp và lên kế hoạch phối hợp thực hiện;
Tiếp xúc với các bên liên quan để đàm phán, thuyết phục nhằm giải quyết các tranh chấp nội bộ bằng con đường thương lượng hoặc hòa giải với vai trò trung gian của luật sư;
Tư vấn, đại diện Khách hàng tham dự các cuộc họp để giải quyết tranh chấp;
Tư vấn và thực hiện các thủ tục đăng ký kinh doanh chia, tách, giải thể doanh nghiệp;
Cử luật sư đại diện Khách hàng khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án hoặc Trọng tài;
Tư vấn và hỗ trợ Khách hàng trong quá trình thi hành án và các vấn đề khác có liên quan.

Các loại tranh chấp nội bộ công ty phổ biến

Tranh chấp tư cách thành viên, cổ đông doanh nghiệp: cổ đông/thành viên không góp không đủ vốn đã đăng ký nhưng yêu cầu được hưởng lợi ích đầy đủ như các cổ đông đã góp đủ vốn.
Tranh chấp phát sinh từ phương thức góp và tài sản góp vốn: định giá tài sản cao hơn giá trị thực tế; không chuyển sở hữu tài sản góp vốn; không thỏa thuận với nhau trước về việc góp vốn và giá trị góp vốn bằng tài sản.
Tranh chấp về việc mua cổ phần chào bán của các công ty cổ phần.
Tranh chấp từ việc chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp và tính hợp pháp của các hợp đồng chuyển nhượng liên quan.
Tranh chấp về phương thức quản lý, điều hành nội bộ trong doanh nghiệp.
Tranh chấp liên quan tới việc thủ tục tổ chức các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên công ty.
Tranh chấp về thẩm quyền thông qua các quyết định quản lý nội bộ doanh nghiệp.
Tranh chấp về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức giám đốc, người đại diện pháp luật của công ty.




0 nhận xét
Nhãn: , , , , ,

Ưu điểm và nhược điểm khi giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại

 


Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận lựa chọn và được tiến hành theo quy định của pháp luật. Cũng như hòa giải, thương lượng, tòa án, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại cũng có những ưu điểm và nhược điểm. Dưới đây là một số ưu, nhược điểm của trọng tài thương mại.

Tương tự như hòa giải, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại cũng bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai phương thức này là việc giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài sẽ được điều chỉnh bởi Luật trọng tài thương mại. Các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn trọng tài phù hợp, có thể là trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp.

Thực tiễn áp dụng pháp luật trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp bộc lộ một số ưu điểm như sau:

Thứ nhất, đây là phương thức giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc không công khai nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là một ưu điểm mà bất cứ các bên tranh chấp đều coi trọng bởi nó hạn chế sự tiết lộ các bí quyết kinh doanh, giữ được uy tín các bên.
Thứ hai, quyết định của Trọng tài là chung thẩm, vì vậy nó có giá trị bắt buộc với các bên và quyền kháng cáo trong trường hợp này bị vô hiệu. Việc xét xử tại Trọng tài thương mại chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, điều này không giống với việc xét xử tại Tòa án là hai cấp. Chính vì vậy nó tạo tiền đề cho ưu điểm sau.

Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp phát sinh thông qua trọng tài thương mại thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo, đồng thời rút ngắn thủ tục tố tụng qua đó góp phần tiết kiệm được thời gian, công sức của các bên.

Thứ tư, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do đó các bên có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ trọng tài nào để giải quyết tranh chấp của mình.

Tuy nhiên, các bên tranh cấp cũng cần lưu ý rằng việc lựa chọn phương thức giải quyết bằng trọng tài cũng bộc lộ một số nhược điểm như: Việc thi hành phán quyết trọng tài phụ thuộc rất nhiều vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp. Trường hợp bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài khi đã hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài thì bên được thi hành án mới có thể gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phán quyết.

Bên cạnh đó, một trong các bên tranh chấp có thể nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy bỏ phán quyết trọng tài khi không phải đáp ứng được một trong các điều kiện sau: (i) Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu; (ii) Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này; (iii) Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ; (iv) Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài; (v) Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Ngoài ra, khi các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao.

0 nhận xét
 
© 2012 |Thành Lập Công Ty |Designed by Plantillas Blogger and Aplicaciones Android